“ Lão phu cho rằng sách lược của quân hầu chưa hoàn thiện.”
Khi Vân Lang ban bố Tiến thành lệnh chỉ có thượng hộ trải qua khám nghiệm mới có thể nào thành, Hạ Hầu Tĩnh vội vàng tới thành Cô Tang, chưa uống được ngụm nước nào đã khuyên gián.
“ Ồ, tiên sinh có kế hay gì?” Vân Lang khiêm tốn hỏi:
Đi theo cùng Hạ Hầu Tĩnh còn có một lão giả áo lam, mặc dù Vân Lang không quen, nhưng chắc chắn không phải là người thân phận tầm thường.
“ Quân hầu quên trong một tòa thành không thể thiếu người đọc sách.” Hạ Hầu Tĩnh nói ngắn gọn:
Vân Lang chưa vội tỏ thái độ, đứng dậy rót trà cho hai vị khách, chắp tay với lão già áo lam:” Xin hỏi đại danh tiên sinh.”
Lão giả đứng lên đáp lễ:” Lão hán Sơn Đông Hà Khâu Giang Công.”
Thì là bậc đại nho danh vọng trong Nho môn không kém Đổng Trọng Thư, Vân Lang mừng rỡ thi lễ lần nữa:” Thì ra là Giang công, Vân mỗ mắt kém xin thứ tội.”
“ Khà khà, lão phu chẳng qua là lão già vô dụng không được thái tử trọng dụng, sao đáng được quân hầu coi trọng như thế?”
Vân Lang cười ha hả:” Hôm nay có khách quý tới thăm, Hạ Hầu công, chúng ta còn bàn bạc công việc gì nữa, người đâu lệnh hậu trạch mau mau chuẩn bị rượu thịt, rượu phải nhiều, thịt phải lớn! Lại tìm thêm vũ nương, nhạc công Tây Vực, hôm nay không say không được.”
Hạ Hầu Tĩnh thấy Vân Lang đứng dậy rời đi, cười lớn đi theo:” Đáng thương lão phu ở nơi hoang dã lâu năm, sớm quên mùi rượu thịt, tiếng đàn sáo mất rồi.”
Giang Công gật gù:” Lão phu sớm nghe món ăn Vân thị, chỉ là Vân hầu không ở nhà, nay cơ hội tốt không thể bỏ lỡ.”
Ba người đều có thiện ý, cho nên cực lực làm không khí sôi nổi, chủ khách cực kỳ tương đắc.
Tửu yến ca vũ chuẩn bị thỏa đáng, Tư Mã Thiên hay tin mò tới, gia nhập luận đàm, qua ba tuần rượu, Giang Công thở dài:” Thái tử tốt như thế bị bệ hạ nuôi thành phế vật, ai nấy chê cười Lưu Cư, không biết nguồn cơn là ở bệ hạ. Lưu Cư vốn cũng gọi là được, bản tính rộng rãi mộc mạc. Thế nhưng bệ hạ lấy mình đo người, cho rằng bản thân hùng tài đại lược, ý chí sắt đá thì nhi tử cũng phải như thế. Lại chẳng biết một loại gạo nuôi ra trăm loại người, Lưu Cư sống sâu trong thâm cung vốn nhút nhát, nếu theo bệ hạ vài năm, thế nào cũng tiến bộ.”
“ Bệ hạ lại không đủ kiên nhẫn, đưa thái tử tới đất biên, tranh phong với dã nhân, tuy cướp được ít tiền, khiến thái tử hiền hòa nhút nhát phải chém giết, cướp bóc không ngừng nghỉ. Nơi chiến trận vứt bỏ nhân nghĩa chí tín trung hiếu mới có thể đánh đâu thắng đó, thành công khiến thái tử cho rằng chỉ có như vậy mới khiến bệ hạ thích.”
“ Giờ tâm trí thái tử đã hình thành, muốn xoay chuyển làm sao mà được, nực cười bệ hạ còn muốn dùng Lưu Bác bức bách thái tử lần nữa, e rằng chỉ khiến thái tử càng đi vào con đường cực đoan, chôn xuống mầm họa cho Đại Hán mất rồi.”
Tư Mã Thiên nghe những lời này bất giác liếc Vân Lang đang mỉm cười uống rượu, thực ra nguyên do không phải chỉ vì bệ hạ.
Giang Công uống rượu vào liền hào khí ngút trời, thẳng thừng chỉ trích hoàng đế, hạ thấp Lưu Cư, những lời như thế thường chỉ hai loại người nói ra, một là kẻ ngu xuẩn, hai là bậc trí giả.
Ông ta tất nhiên không ngu xuẩn, cho thấy những lời này không chỉ thông minh còn có sức quyết đoán.
Vân thị và Trường Môn cung là một, sau khi hoàng đế từ chối Hung Nô cầu hôn Lam Điền, cơ bản cho thấy quan hệ hai nhà, lời đồn đại về Lam Điền với Vân Triết là thực, điều này đồng nghĩa là Vân Lang chỉ có thể đứng về phía Lưu Bác.
Lúc này nói những lời bất mãn với Lưu Cư, Lưu Triệt dễ dàng khiến quan hệ với Vân Lang thân thiết hơn, quan trọng là khéo léo thể hiện chuyện có nguồn cơn, thể hiện mình không phải tiểu nhân phản trắc.
Tất nhiên ở Lương Châu này chỉ kết minh với Vân Lang thì học thuyết Cốc Lương mới phát huy được.
Vân Lang cũng có trả lời.
Hoắc Quang biểu diễn vũ kiếm, Vân Âm biểu diễn vũ đạo đều được tán thưởng.
Hạ Hầu Tĩnh và Giang Công hài lòng ra về, bọn họ không chỉ được mở học đường ở Độc Thạch thành, còn cấp cho họ tiền lương, cho phép họ mua ít đất quanh học đường mở cửa hiệu làm nguồn tiền vĩnh cửu cho học đường.
Hai người đó không cần cám ơn, bọn họ tự hiểu Cốc Lương phải hướng về Lưu Bác.
“ Cha vì sao lại coi trọng hai người này như thế?” Vân Âm không hiểu, lần đầu tiên cha gọi nàng ra biểu diễn vũ đạo cho khách, hiển nhiên không tầm thường, nên biết tới giờ chỉ Hoắc Khứ Bệnh, Tào Tương, Lý Cảm từng xem nàng biểu diễn, cả hoàng đế chúng chưa có đãi ngộ ấy:
“ Vì bây giờ đối tượng chúng ta trung thành chỉ có thể là bệ hạ, cho nên sư phụ không thể trực tiếp hỗ trợ Lưu Bác.” Hoắc Quang tất nhiên phải giải thích cặn kẽ cho Vân Âm:” Chúng ta chỉ ngồi thuyền của mình, không ngồi thuyền người khác lái, sau này dù ai đăng cơ chăng nữa thì cũng phải lôi kéo chúng ta, ít nhất trong ngắn hạn không ủng hộ bên nào sẽ là sách lược của chúng ta.”
Vân Âm hiểu rồi, vì cha lười lắm, lười kinh khủng luôn, chẳng muốn tự làm cái gì nên cần người khác làm hộ mình. Đó là chiêu sở trường của cha nàng, giống như cha bóc lột Hoắc Quang vậy, gần như Hoắc Quang làm thay chức mục thủ rồi, ngay cả con dấu cha cũng không thèm tự đóng.
Đại Vương từ nóc nhà nhảy xuống tường bao, nhảy qua nóc chuồng ngựa, trượt dốc xuống đất, tha cái thảm rách của mình đi tìm Vân Lang đang xem sách dưới bóng cây, trải thảm ra nằm lên.
Vân Lang nhét một miếng thịt khô vào mồm Đại Vương cho nó nhai rồi xem sách.
Đọc sách là quá trình suy nghĩ của Vân Lang, là thói quen tốt được rèn lên từ nhỏ, giúp y không ngừng tiến bộ đồng thời giữ bình tĩnh, mài rũa tâm tính.
Lúc đắc thế không ngông cuồng, khi sa cơ không ủ rũ.
Đôi khi từ trong hàng chữ liên tưởng ra ý tưởng bất ngờ, có lẽ đó là ý nghĩa của đọc sách.
Đại Vương há mồm ra ngoạm lấy chân Vân Lang, không dùng lực vẫn khiến Vân Lang kinh khiếp, tuy biết nó không định làm hại mình, nhưng chỉ một chút sức của nó cũng có thể cắn đứt chân rồi.
Banh miệng Đại Vương ra, Vân Lang thở dài, Đại Vương rốt cuộc cũng cảm thấy cô độc.
Bỏ sách xuống, Đại Vương đứng dậy, thấy Vân Lang ra cửa, lưu luyến nhìn cái thảm của mình một chút rốt cuộc vẫn đi theo.
Lương Châu tháng 5 đẹp không sao kể siết, hoa hòe nở thành từng chùm từng chùm, nhưng trong không khí lại đầy hương hoa nhót.
Nếu nói hoa hòe còn có chút thẹn thùng không muốn tỏa hương khắp nhân gian thì hoa nhót chẳng chút ngại ngần tỏa hương, khiến vùng bán man hoang này thơm ngát như phòng ngủ quý phụ.
Người Hán trồng lúa mạch, người Khương lại trồng thanh khoa và kiều mạch.
Người Khương thích đất núi hơn, không mấy ai thích bình nguyên, điều này làm người Hán không hiểu, Vân Lang sau này mới biết, vì sống trên núi an toàn hơn nhiều ở bình nguyên.
Đó là nguyên nhân vì sao người Khương thà trồng trọt trên núi chứ không xuống bình nguyên.
Bất kể khi nào, sinh mệnh vĩnh viễn quan trọng nhất.