Hôm sau Vân Lang vẫn dậy đúng như thường ngày, rèn luyện buổi sáng, ăn thật no bụng, đeo ba lô của mình lên vai, bảo với Lương Ông:” Ta vào núi một chuyến, khả năng mất vài ngày, trong nhà nếu có chuyện gì thì tìm đám Hoắc Khứ Bệnh, hẳn không có vấn đề gì.”
Nói xong không cho Lương Ông lên tiếng, gọi Đại Vương tới, một người một hồ cứ thế đi vào khu rừng rậm rạp.
Tào Tương đứng dựa vào cột nhà, ngoạm bánh nói:” Mấy ngày qua tâm tình y không tốt, ta thấy y chỉ gượng cười thôi, cứ lúc nào ở một mình là lại trầm tư buồn bã.”
Lý Cảm suy đoán:” Nhà bị người ta chiếm, tâm tình làm sao tốt được.”
Hoắc Khứ Bệnh khá hiểu Vân Lang trầm ngâm:” A Lang chắc chắn không thích chuyện A Kiều tới nhà mình rồi, chuyện này với người khác là vinh hạnh, với y thì khác, y có ý nghĩ lạ lắm, cái gì của mình là của mình, không ai được đụng chạm vào. Nhưng tính y cũng rất sái thoát, rất ít chuyện khiến y để tâm, chừng đó chưa đủ làm y sa sút tinh thần được, đợi về rồi chúng ta phải hỏi rõ, ta nghĩ lần này có chuyện nghiêm trọng rồi.”
Vân Lang lên Ly Sơn, hì hụi đào nền nhà, thấy ra cái thứ tai hại mà y đã chôn cất kỹ tưởng chẳng bao giờ đụng vào nữa, sau đó quen đường thuộc lối đi vào Thần Vệ doanh, nơi này sớm đã sáng rực, bên trong có vài cái tượng đất được làm dang dở, đó là tác phẩm của Thái Tể, hình dáng xấu xí mèo mó chẳng ra làm sao. Vân Lang chào hỏi các vị gia gia, bá bá tiếp tục đi tới, đến lối dẫn vào hoàng lăng.
Thái Tể đã ăn mặc triều phục chỉnh tề đứng trước cửa, đợi Vân Lang tới dùng chùy gỗ gõ cột đá, ông đã không còn đủ sức làm việc này nữa rồi, nhìn Vân Lang và Đại Vương mang theo một đống ba lô lớn nhỏ đi tới thì mỉm cười, ông biết thế nào Vân Lang cũng đến.
Vân Lang hậm hực đi trước dùng chùy gõ cột đá, vì lần này y mang theo rất nhiều trang bị, bao gồm cả lương thực và nước uống đủ dùng vài ngày, nên Thái Tể phải dẫn theo Đại Vương cho dù nó rất không muốn, bọn họ từng bước đi lên bậc đá cầu thang xoắn ốc, cứ như đi tới thiên quốc.
Con mãng xà vẫn như những lần trước đó trườn tới, Vân Lang giữ Đại Vương lại, không muốn nó tốn sức đi đánh nhau với con vật chỉ tới xin ăn.
Thái Tể lấy ra một miếng thịt lợn cật lực ném về phía mãng xà:” Ăn đi, miếng thịt lần trước cho ngươi nhỏ quá.”
Con rắn nhường đường cho bọn họ qua cầu, gió nổi lên, không biết vì sao lần này trong gió trộn lẫn tiếng nhẹn ngào, giống như có phụ nhân đang khóc.
Thái Tể đi rất chậm, gần như phải lê từng bước một, Vân Lang dìu ông, lặng lẽ chống chọi cơn gió trong sơn đạo dài dằng dặc. Đại Vương rất có linh tính, cho nên mang hai cái ba lô đi theo không gầm gừ tiếng nào.
Vì tất cả các cơ quan trong hoang lăng bị Vân Lang hoặc khống chế hoặc phá hủy, cho nên đường đi rất thuận lợi, chẳng bao lâu họ tới được thị tập. Nơi này vẫn náo nhiệt như vậy, chỉ là tên tiểu tư (sai vặt) rót rượu cười rất đáng ghét, Thái Tể lấy từ dưới quầy ra một vò rượu, lắc khẽ tiếc nuối nói:” Còn ngụm cuối cùng thôi.”
Vân Lang cởi bầu rượu trên lưng xuống:” Gia gia, cháu còn đây.”
“ Không sao, ta cũng uống ra vị gì nữa đâu, đã tới quán người quen rồi mà không uống rượu của người ta là thất lễ lắm.” Trong mắt Thái Tể những người này không phải là tượng đất vô tri mà là thần dân Đại Tần:
Vân Lang bồi tiếp Thái Tể uống số rượu cuối cùng còn sót lại của thị tập, sau đó đi đến thành Hàm Dương.
Lần này Vân Lang không chuẩn bị bất kỳ cái gì, dẫn đầu chui vào lỗ rắn, vừa bò vừa dùng thừng kéo Thái Tể tiến lên, nghe thấy tiếng thở khò khè của Thái Tể phía sau, quay lại nói:” Gia gia đừng cố sức, để cháu kéo.”
Thái Tể cười:” Con hổ cứ đẩy ta …. đấy, nó lại dùng đầu đẩy ta nữa rồi, cái thứ nhát gan giống hệt ngươi vậy.”
Thân hình Đại Vương to lớn, đi trong đường hầm tối tăm chật chội làm nó rất bất an vì thế cứ liên tục đẩy Thái Tể về phía trước.
Vào trong thành Hàm Dương, Vân Lang đi châm tất cả những thứ cháy được lên, dầu trong cái đỉnh đồng cháy rừng rực, có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng số dầu cá voi này chiếu sáng cái cung điện ngầm dưới lòng đất này, nên chẳng có lý do gì mà tiết kiệm nữa.
Vân Lang rất ngang ngược đẩy thi thể mặc y phục hoa lệ ra khỏi cỗ xe ngựa đơn giản hai bánh, lại lấy đệm từ cỗ xe ngựa khác, phủi bụi đi rồi trải lên.
Thái Tể trách móc:” Sao lại đẩy thi thể Thành Ấm quân xuống, người ta là hoàng tộc đấy, ta còn đi được.”
Vân Lang chẳng quay đầu lại, nhạt nhẽo nói:” Hắn chết rồi, ngồi bao năm đến lượt gia gia ngồi.”
Nói rồi lấy cái chùy đồng đập vỡ con ngựa kéo xe, lấy xe ra bế Thái Tể lên xe, xót xa nói:” Gia gia chẳng còn chút trọng lượng nào.”
“ Tất nhiên, đèn đã cạn dầu, ngươi còn hi vọng ta có được bao nhiêu thịt chứ?” Thái độ đối diện với cái chết của Thái Tể rất tích cực, giọng vui vẻ:
Vân Lang lấy cái cục trì nặng nề ở trên lưng hổ xuống, đặt bên cạnh Thái Tể:” Mắt của chúc long đấy, gia gia cứ nhìn tùy thích, đừng để cháu nhìn thấy, nếu không cháu nổi lòng tham cướp về thì gia gia không đánh nổi cháu đâu.”
Thái Tể vội vàng ôm lấy, chỉ là thấy lớp vỏ xù vì bọc bên ngoài cái hộp gỗ tinh xảo thì ngạc nhiên:” Vì sao lại dùng chì phong bế?”
Vân Lang nói dối:” Để át chế lòng tham của bản thân, cháu dùng đao nạy giúp rồi, gia gia cứ mở nắp ra là thấy.”
“ Ồ, vậy ta phải xem cho thích, tránh ngươi hối hận.” Thái Tể vui mừng ôm cái cục chì xù xì vào lòng, cúi đầu xuống áp má lên đó, dáng vẻ vô cùng hạnh phúc:
Vân Lang khịt mũi, lặng lẽ kéo xe ngựa đi sâu vào trong thành Hàm Dương.
Mặt đất chẳng những bằng phẳng mà còn bóng loang, đường lớn rộng một trượng hai, ở giữa rãnh lõm xuống, bốn bánh xe vừa vặn đặt vào đó, thế là không cần chú ý phương hướng nữa, chỉ cần dùng sức kéo đi là được.
“ Đây là trì đạo, cho dù là đêm tối, vì có vết bánh xe, không lo đi sai đường. Năm xưa bệ hạ còn làm nam trì đạo ở Lĩnh Nam, bánh xe chỉ cần khớp vào rãnh là có thể đi suốt ngày đêm. Nhâm Hiêu, Triệu Đà có thể lĩnh bốn mươi vạn đại quân tiến vào Lĩnh Nam chính là dựa vào con đường này.” Thái Tể kiêu ngạo giới thiệu Vân Lang:” Mặc dù tốn kém, nhưng đây là thành tựu lớn của bệ hạ, xe nhẹ có thể ngày đêm đi ngàn dặm. Ta biết ngươi không thích bệ hạ, nhưng ngươi phải biết, không có bệ hạ, thiên hạ vẫn loạn, sáu nước chinh chiến liên miên. Hoàng đế thì không thể nhiều, một là đủ, hai là sẽ có chiến tranh, ba thì chiến loạn liên miên, sáu thì dân chẳng bao giờ sống yên.”
“ Nay chính lệnh của nước Hán có thể truyền khắp thiên hạ là phải cảm tạ công tích của Thủy hoàng đế, nếu không có bệ hạ, sẽ không có tư tưởng đại thống nhất, thiên hạ còn đánh nhau mãi. Nay nói ra, ngụy đế Lưu Triệt chẳng qua là kế thừa bệ hạ mà thôi.”
“ Gần đây gia gia nhìn thiên hạ suy nghĩ rất nhiều, cũng thay đổi nhiều, huyết mạch đế vương có thể đoạn tuyệt, thống nhất của quốc gia không thể thiếu sót, ha ha ha, điển chương, pháp độ, lễ nghi của nhà Hán đa phần là chiếu theo Đại Tần ta, không thể thất truyền. Đế vương hậu thế chỉ cần kế thừa chủ trương của bệ hạ, tán đồng bệ hạ, thừa nhận bệ hạ thì ai làm hoàng đế cũng được.”
“ Năm ngoái tuyết lớn, ta còn hận trời cao thiên vị nước Hán, giờ sắp chết rồi, phát hiện ra, đã không thể xoay chuyển càn khôn, thuận theo đại thế nhân gian mà đi không phải là chuyện xấu.”
“ Trước kia chúng ta cứ gọi Lưu Triệt là ngụy đế, khắp thiên hạ chắc chỉ còn hai chúng ta xưng hô thế thôi, thật đang cười. Giờ ta sắp đi rồi, ngươi cũng không cần kiên trì nữa, không cần xưng hô như vậy nữa, vì cái lão già này mà ngươi thành người bất nghĩa, thần bất trung, nhân bất thành, ngay cả người trong lòng cũng không dám giữ, mọi tội nghiệt đều là của ta, lão phu quá ích kỷ rồi.”
“ Khà khà, khi ta đi, ngươi có thể vứt bỏ mọi thứ, nghĩ cách thả đoạn long thạch xuống, chôn vùi toàn bộ quá khứ đi, sau đó có thể đi tìm Trác Cơ rồi. Ngươi là đứa trẻ tốt, rất thông minh, tiền đồ sẽ vô cùng tươi sáng, rồi sẽ một ngày để lại những dòng văn tự chói lòa trên lịch sử.”
....
Dịch mấy chương này mà mắt cay cay.