Năm ngoái chỉ ruộng đồng Vân gia khói bay cuồn cuộn, năm nay thêm Trường Môn cung cũng mù mịt khói, mảnh đất xanh biếc trước kia không còn nữa, thay vào đó là đất đai được san phẳng chia thành từng khoảnh, từng khoảnh vuông vức, trông rõ ngứa mắt.
Vân Lang như mọi ngày dẫn Đại Vương đi tuần tra, thực ra nói tản bộ thì đúng hơn, một con hươu sao từ xa chạy tới góp vui. Đại Vương kêu gừ gừ, con hươu chết tiệt đó tới, hôm nay nó vừa mới tắm sạch sẽ thành phí công rồi.
Chuồng hươu của Vân gia chính là dựa vào con hươu này chạy khắp nơi lừa hươu đực về mà thành, hươu đực rồi có hươu cái, rồi hươu con, giờ Vân gia hươu đầy đàn, sữa cho trẻ con uống thoải mái, sau này tha hồ cao lớn vạm vỡ. Vân Lang nghiên cấm Đại Vương ăn nó.
Hươu cái chạy tới, chẳng để ý tới Vân Lang, cứ thich cọ đầu vào người Đại Vương, Đại Vương mặt ưu thương để cho rận, cỏ, đất từ con hươu hoang dã đó dính lên bộ lông bóng mượt của mình. Cho tới khi nó vô lễ dám ngửi mông mình mới tát một phát, sau đó chúng chơi trò Chu Du đánh Hoàng Cái đó cả sáng.
Đồng ruộng giờ là một mảnh vàng khô, một mảng nhỏ trồng củ cải đường đang dần dần biến thành màu đỏ, đó là thu nhập lớn trong tương lai của Vân gia. Vân Lang gạt lá, nhìn rễ mập mạp phía dưới, vô cùng hài lòng, giống đã thu hai đợt, đều ghi chép lại, giờ chỉ cần tìm loại có hàm lượng đường cao nhất đem về vườn giống trong nhà trồng tiếp.
Đi hết địa giới Vân gia nhìn thấy mười mấy người đang kéo thừng đo đạc đất đai, Vân Lang nhận ra yết giá Tào Thắng của Tào gia, Tào Thắng từ xa ục ịch lăn tới thi lễ.
“ Sao, Tào Tương thực sự định đổi đất sang đây à?”
Cái đống mỡ trên mặt Tào Thắng toàn mồ hôi, cười toét miệng:” Đổi rồi, đổi rồi ạ, bảy nghìn mẫu ruộng tốt đổi lấy ba nghìn mẫu hoang, ai cũng bảo hầu gia nhà lão nô là bại gia tử, hà hà, bọn họ biết cái gì chứ.”
Tào Tương luôn nóng vội như thế, muốn cái gì phải làm ngay, Vân Lang chỉ cười không đáp, ra hiệu cho Tào Thắng tiếp tục đo đất, y dẫn hổ với hươu đi tuần.
Mùa thu trời cao gió mát, đứng trên đồng quê rộng lớn, sinh ra cảm giác hoài cổ.
Quốc gia đại nhất thống thì phải có khí thế đại nhất thống, Lưu Bang là người theo chủ nghĩa thực dụng, hoàn toàn trái ngược với Hạng Vũ chỉ tìm cách phá hủy mọi dấu tích Đại Tần. Lưu Bang không bận tâm cái gì của Tần, cái gì của Triệu hay của Sở của Tề.
Chỉ cần hữu dụng, ngay cả thịt phụ thân thì ông ta cũng ăn.
Chính vì thế đời sau nhiều người đời sau khinh bỉ Lưu Bang mà tiếc nuối cho Hạng Vũ anh hùng cái thế, Vân Lang thấy nếu để Hạng Vũ thành công lên ngôi chí tôn thì dù vẫn đặt tên quốc triều là Đại Hán thì chẳng bao giờ có một cái gọi là dân tộc Hán sinh ra.
Nhờ Lưu Bang mà nước Hán mới nhanh chóng ngưng tụ lòng người, kết hợp tinh hoa các nước, sau đó sinh ra nền văn minh mới, nó gọi là văn minh Đại Hán.
Kỳ thực trước thời Hán, quan niệm tổ vật của Trung Hoa đã được hình thành, nhưng trải qua năm trăm năm chiến loạn của Xuân Thu Chiến Quốc, lại sinh ra nhiều nền văn minh nhỏ hơn.
Khi mọi người cho rằng thời Chiến Quốc sẽ kéo dài mãi mãi thì Đại Tần thống nhất thiên hạ.
Lúc ấy đất đai Đại Tần chiếm cứ đã vượt xa quốc gia thống nhất trước đó --- Chu.
Nhưng Tần Thủy Hoàng còn chưa kịp xoay chuyển tư duy Chiến Quốc, Đại Tần đã sụp đổ.
Công trạng lớn nhất của hai đời hoàng đế Văn Cảnh không phải là quốc sách giảm thuế má lao dịch, mà dùng mấy chục năm hoàn toàn xóa bỏ tư tưởng phân tranh Chiến Quốc, khiến mọi người dần có ý thức là người cùng quốc gia.
Nếu thời Đại Tần, còn có người muốn khôi phục nước Sở, nước Tề, nước Yên, nước Triệu, dựng cờ khởi nghĩa. Tới thời Hán thì tình hình này đã rất ít rồi, nếu có chỉ là trò cười như vị đại vương chém lợn rừng kia thôi.
Nói cách khác, dưới sự cai trị hài hòa của Văn Cảnh, đã chẳng còn ai đi hoài niệm chư hùng Chiến Quốc nữa.
Vậy là đế quốc đại nhất thống thực sự đã hình thành.
Đầu óc vận hành, Vân Lang liền thấy khoan khoái phần nào, không động não thường xuyên, đầu óc sẽ chậm chạp si ngốc, bây giờ hoạt động rồi, nhìn cái gì cũng thuận mắt.
Ngay cả dã nhân quần áo lam lũ giờ cũng nhìn vừa mắt hơn.
Bây giờ dã nhân đã dám nghênh ngang đi xung quanh khu vực Vân gia và Trường Môn cung rồi, đó là nhờ Vân gia khoan dung đã dụ họ ra khỏi rừng sâu, rồi nhờ tinh thần coi khinh pháp luật của A Kiều, bọn họ thậm chí lại còn cả gan lập nên thị tập nho nhỏ.
Nếu thời gian đủ lâu Vân Lang tin rằng thị tập sẽ phát triển rồi biến thành thị trấn.
Trước kia chỉ có Vân gia để trao đổi thì không cần, cái gì cũng mang cho Vân gia, giờ có thêm Trường Môn cung nữa, thế là cái chợ đơn giản hình thành gần quan đạo.
Hàng hóa ở nơi này chủ yếu là than đá, ít lông thú, thịt khô, và mấy thứ dược thảo, rau quả trên rừng, nói chung than đá vẫn chiếm đại đa số.
Bếp lò của người Hán bằng đất, cầu kỳ chút thì làm bằng đồng, thế nên chỉ có thể đốt củi hoặc than củi, cho tới khi xưởng luyện sắt Trác thị phổ biến bếp lò có ống khói bằng sắt thì mới dần có thói quen dùng than đá.
Vân Lang đứng trên đồi nhìn thị trường than đá nhộn nhịp, còn nhìn thấy thuế lại của quân tửu thuế ti, dã nhân tựa hồ không sợ thuế lại mặc quan phục hông đeo bảo kiếm, giao dịch được gùi than lại quẳng vào đó một hai đồng tiền, hoặc túi gạo.
Đó là hiện tượng tốt, chứng tỏ quan phủ không coi họ là dã thú thấy là giết nữa, điều đó Vân Lang có chút niềm vui nho nhỏ.
Từ sau nạn đói lần trước, Lưu Triệt mở cửa cấm chế suốt mười năm của Thượng Lâm Uyển cho bách tính vào rừng núi sông hồ kiếm ăn, cũng không bố trí cấm chế trở lại nữa, tới giờ bách tính có thể tự do vào Thượng Lâm Uyển mà không lo Vũ Lâm quan đuổi ra.
Dã nhân vì thế mà tranh thủ lên thị tập mua ít lương thực, hoặc dùng than đổi ít vải, sau đó lại đi vào nơi hoang dã, đám thương cổ chuyên môn mua than đá đã dựng mấy cái lều cỏ ở bên đường.
Sức mạnh kinh tế luôn cường đại, Vân Lang tin rằng, những thương cổ thăm dò thu mua than đá này sau khi kiếm được tiền, cái lán cỏ sẽ biến thành nhà, sau đó thành một thị tập lớn, hàng hóa của Vân gia làm ra sẽ có chỗ để tiêu thụ.
Chỉ là địa chủ lớn nhất của mảnh đất này là Lưu Triệt, thị tập phát triển được tới quy mô nào phải xem ý của hắn.
Trở về nhà, Vân Lang nhìn thấy Tào Tương dang rộng tứ chi, thoi thóp nằm dưới hiên, giáp trụ còn chưa cởi, hai cân dính bùn, thị nữ pha trà của Vân gia làm xong chén trà, thổi nguội đưa tới tận miệng hắn.
Đại Vương đi tới cúi đầu ngửi ngửi hình như xác nhận xem có phải xác chết hay không, sau đó gừ mới Vân Lang một tiếng, Vân Lang dịch nghĩa là: Chưa cần chôn.