Cẩu Tử giật đánh thót một cái, hắn biết chuyện lần trước Lưu Lăng phái nội gián tới Trường An, mang theo bản danh sách, viết tên gia chủ lên đó, có lẽ vì thế gia chủ bị hoàng đế nghi kỵ:” Át thị phái người đi Trường An rồi sao, tín sứ của người không phải bị người ta bắt rồi à?”
Lưu Lăng cười ngặt ngoẽo, tát Mông Tra đang chảy nước dãi:” Đúng là hảo nô tài của Vân thị, lo cho chủ chưa kìa.”
“ Sao át thị lại hại gia chủ, gia chủ tốt với người như thế.” Cẩu Tử suýt nữa phẫn nộ không kìm được:
Lưu Lăng sầm mặt:” Cái gì mà tốt với ta, y mà tốt thế thì đã tới Hung Nô bồi tiếp ta, ngươi tưởng ta không biết dụng tâm hiểm ác của chủ tử ngươi à? Chẳng qua là muốn ta làm loạn Hung Nô để hảo hữu Hoắc Khứ Bệnh của y kiếm chiến công thôi.”
“ Hoắc Khứ Bệnh tiến công hành lang Hà Tây, ta cho y toại nguyện, bọn ta sẽ lùi lại Mạc Bắc, để thảo nguyên Mạc Nam cho Lưu Triệt, ta muốn xem xem chúng có mang đi được đất đai hay không?”
“ Trước khi đi, nếu ta không tặng cho chủ nhân ngươi ít lễ vật, làm sao yên lòng được.”
Cẩu Tử đỏ mặt tía tai:” Gia chủ không bao giờ làm thế, át thị nhầm rồi.”
“Cẩu nô tài, cút!” Lưu Lăng vung roi quất, đuổi Cẩu Tử đi, nàng thử thu phục tên này, nhưng lòng hắn hướng về người kia quá mạnh mẽ, không lay chuyển được:
Cẩu Tử mang con dê cái đẹp đẽ về lều, được hai nữ nhân reo hò vui sướng, với người Hung Nô, mỗi con dê đều là báu vật.
Lan Anh dẫn dê cái mới đi gặp dê sừng to trong nhà, mong dê sừng to đừng che thành viên mới trong đàn, bảo vệ nó khi sói tới gần.
Cẩu Tử không tham gia buổi lễ đó, hắn chẳng có chút vui vẻ nào.
Qua cuộc nói chuyện vừa nãy với Lưu Lăng, hắn biết Lưu Lăng không hề có chút ý định nào cho hắn trở về. Hắn chẳng ngại một mình một ngựa về Trường An, nhưng hai nữ nhân ngốc kia và đứa bé ngủ say như đá nặng buộc chân hắn rồi.
Trong bốn năm sống ở Vân gia, điều làm hắn quyến luyến chẳng phải là vì được ăn ngon, mặc ấm, mà vì mọi người cùng nỗ lực làm cho cái nhà xây giữa đồng hoang ấy thành nơi giàu có.
Ở Vân thị, chữ đầu tiên hắn được dạy chỉnh là "nhà".
Đạo lý đầu tiên hắn được học là, nhà lớn hơn trời.
Cẩu Tử là cô nhi, trước kia không có nhà, về sau có nhà, lại giả vờ không có nhà, nên cảm giác nhà với Cẩu Tử cháy bỏng hơn bất kỳ ai.
Nhưng một Tú Y sứ giả cô độc thì làm được gì, trước kia thường có Hán sứ tới Hung Nô, về sau hai nước đánh nhau dữ dội liền không có sứ giả qua lại nữa.
Làm sao có thể đưa hai nữ nhân và một đứa bé vượt ngàn dặm hoang nguyên về nhà.
Đó là vấn đề lớn.
Cẩu Tử đang nhìn chằm chằm trời sao qua lỗ thống khí thì Lan An lặng lẽ bò tới, chui vào chăn.
Hai nữ nhân này rất hiểu lòng người, trước kia bọn họ trị chứng mất ngủ của Cẩu Tử như thế. Nhất là mùa đông dài dằng dặc ở phương bắc, nếu không có chút an ủi này, vượt qua được để tới mùa xuân không phải dễ.
Lan Anh hết sức hoang dại, nhấp nhổm trên người Cẩu Tử như nữ kỵ sĩ ...
Mây tan mưa tạnh, trong lều chỉ còn tiếng thở dốc của hai người, Lan Kiều ở bên cho con bú che miệng cười trộm.
“ Khi chàng đi điểm danh, thiếp đổi với nữ nhân nhà Sắc Lăng Cách bảy con dê đực, toàn là những con hung dữ nhất. Mấy ngày nữa lại đổi với Bát Lặc một con chó ngao, vậy là nhà ta có năm con chó ngao, mười một con dê đực.”
“ Mục trường nhà chúng ta ta không còn có nữa, phải đi xa chăn dê thôi ...”
Cẩu Tử lồm cồm bò dậy:” Các nàng muốn đến đất Hán vậy sao?”
Lan Anh ôm cổ Cẩu Tử, đưa lưỡi liếm tai hắn:” Thiếp muốn nếm thử xem đường mà chàng nói có vị gì? Muốn xem lầu cao mà chàng kể, muốn tắm trong ao nước nóng, Đại át thị vừa trắng vừa mịn màng, có phải do tắm trong ao không?”
Lan Kiều, Lan Anh muốn ăn món ngon của Vân thị, Cẩu Tử cũng muốn lắm chứ, nghĩ tới thịt kho của trù nương là nước bọt chảy ra rồi. Nhất là vào mùa đông ở lỳ trong lều chỉ có ít thịt khô, ít sữa khô để ăn, hắn cực kỳ nhớ nồi canh trứng sôi sùng sục, húp một ngụm ấm toàn thân.
Nghĩ tới đó lại không chịu được rồi, xé một miếng thịt khô trên giá, chia mỗi nữ nhân một miếng, sau đó ba người nằm xuống thảm nhìn trời cao, hai nữ nhân đợi nghe Cẩu Tử kể món ăn truyền kỳ ở Vân thị, sau đó tưởng tượng miếng thịt vừa khô vừa cứng trong miệng mình là những món ăn đó.
“ Lần đó Trường An xuất hiện nạn đói, gia chủ chạy khắp nơi kiếm cái ăn nuôi bọn ta, khi đó ta còn nhỏ, ăn mãi không thấy đủ, ăn lại nhanh thế là chỉ biết nhìn bát cháo loãng của huynh đệ tỷ muội khác.”
“ Năm đó chết nhiều người lắm, thi thể đông cứng trên đường, người chết đói mà cá dưới sông lại béo múp míp. Ta khi đó còn nhỏ, chẳng giúp được gì, gia chủ và và đại ca lớn hơn cắn răng ra sông bắt cá, nhiều người bắt lắm, trời lại lạnh, nên từ sáng đến tối chỉ được vài con cá.”
“ Mọi người lấy cái nồi lớn nhất, cho thật nhiều nước, một nắm gạo thôi, ta ăn cả bát lớn mà chẳng no, bát ở nhà to bằng đầu ta ấy ...”
Lần này chẳng có món ăn ngon lành nào, Lan Anh, Lan Kiều nghe càng si mê.
Lan Anh vất vả xé một miếng thịt khô:” Mai chúng ta nói với đầu nhân, chúng ta đi xa chăn dê.”
Cẩu Tử thở hắt ra một hơi:” Con còn nhỏ quá, không chịu nổi đường xa đâu, thêm thời gian nữa đi.”
Lan Kiều kiên quyết lắc đầu:” Mai nói, cỏ trong nhà sắp hết, dê con ăn không no, đi sớm mười ngày nữa là thiếp có thể chăn dê rồi, buộc con trong lòng, đi câu cũng không ngại.”
Cẩu Tử vỗ đầu Lan Kiều:” Muốn đi thì phải đợi Đại át thị không rảnh để ý tới ta nữa mới đi được, so với sói đói trên thảo nguyên, ta càng sợ Đại át thị.”
Trong lều im lặng rất lâu, sau đó Lan Kiều lại hỏi:” Vân thị có nhiều đường lắm sao?”
Trước khi sinh, Cẩu Tử kiếm cho nàng một ít đường, mùi vị đó cả đời nàng không sao quên được.
“ Nhiều, nhiều lắm, trong nhà có người quanh năm chẳng làm gì cả, chỉ làm đường thôi, nên lúc nào cũng có đường để ăn. Mấy năm qua ta giúp trong nhà rất nhiều việc, quản gia thế nào cũng nể mặt, nàng ăn thoải mái ...”
“ Thiếp cũng muốn ăn.” Lan Anh sợ Cẩu Tử quên mình, vội lắc tay Cẩu Tử:
Cẩu Tử ném miếng thịt khô cuối cùng vào mồm nhai nhồm nhoàm:” Đợi các nàng biết mùi vị bánh ngọt, lúc đó đường là cái rắm gì.”
……. …………
Khi thảo nguyên vẫn còn không khí se se lạnh cuối xuân thì Quan Trung đã nhập hạ, cái mùa nóng bức, rất không thích hợp để chết.
Trước kia Vân Lang cho rằng người Nhật Bản tự sát có cảm giác nghi thức nhất.
Bất kể là khi rạch bụng yêu cầu nghiêm khắc về vết cắt, vũ khí sử dụng, hướng ngồi, hay là nhờ người ta giơ đao chặt rụng đầu làm Vân Lang khao khát hoạt động đó không thôi, hận không thể một lần được làm người cầm đao đó.
Trong mùa hoa anh đào bay lất phất, nhát đao chém xuống, máu tươi đỏ rực bắn đầy đất, sau đó y kéo lê thanh đao nhỏ máu cô độc bước đi, cảm thụ văn hóa cao quý "sống rực rỡ như hoa mùa hạ, chết tĩnh lặng tựa như lá thu" của người Nhật Bản.
Ở Đại Hán thì khác hẳn, đối với người Hán, tự sát là chuyện vô vị, càng là chuyện riêng tư.
Dũng cảm chút thì dùng dao cứa cổ, hoặc một nhát xuyên tim, tuyên bố sự cương liệt với người đời. Kém hơn một chút thì lựa chọn uống thuốc độc, đó là cách chết bất đắc dĩ.
Tệ nhất là treo cổ, cho dù chết rồi vẫn để lại nụ cười quỷ dị cho người sống nhìn, như đang nói: Giờ ta chết rồi, ngươi làm gì được ta?
Ba ngày trước Trương Thang truyền tin mình muốn tự sát cho tất cho tất cả mọi người biết, còn chuyên môn mới Vân Lang mà đám hảo hữu ngày xưa tới tham quan ông ta tự sát ra sao.
Nói là muốn dùng cái chết của mình mà nói với người thiên hạ, chớ vì được bệ hạ ân sủng mà làm việc tùy ý, cuối cùng chỉ có thể lấy cái chết tạ lỗi với thiên hạ.
Tư giao giữa Vân Lang và Trương Thang rất tốt, chuyện này ai cũng rõ, vì thế y đành mặc trang phục màu trắng đi tiễn chân ông ta.
Dù Trương Trang thông tri cho rất nhiều người, đến ngày tự sát, người đi tiễn chân chỉ có Vân Lang và một thương nhân tên là Điền Giáp.