“ Có người nói phụ thân ta bị Vệ Thanh bức tử.”
Vân Lang và Tào Tương nhìn nhau, từ cách xưng hô của Lý Cảm với Vệ Thanh là thấy hắn không đơn thuần coi như tin đồn:” Ai?”
Lý Cảm mặt âm trầm:” Không rõ, tới giờ ta không nhớ ra là ai nói với mình câu này.”
Tào Tương nhìn kỹ Lý Cảm một lúc, xác định xem hắn nói thật tới đâu, chuyện này quá nghiêm trọng nên Tào Tương không dám bình luận thêm gì cả, xua tay:” Trước tiên ngươi nên hỏi thân vệ và quân tư mã của phụ thân ngươi, sau đó hẵng quyết.”
Trong thời gian chịu tang không uống rượu, Lý Cảm trầm tư mân mê chén trà:” Rất lạ, gia tướng đào thoát khỏi chiến trường đều bệnh chết, quân tư mã Triển Thông mất tích, tám chín phần quân dưới quyền cha ta cũng chết rồi.”
Vân Lang cẩn thận nói:” Vậy thì không liên quan tới Đại tướng quân.”
Tào Tương đột nhiên cười khùng khục:” Ta e là có kẻ làm quá rồi.”
“ Đúng thế, kỳ thực phụ thân ta trước khi rời Hữu Bắc Bình từng để lại cho ta một phong thư, sau khi về, lão bà ta đưa cho ta, bên trong viết rất rõ.” Lý Cảm tiết lộ:” Ba mươi năm trước phụ thân ta đã biết không thể phong hầu.”
Vân Lang kinh ngạc hết sức:” Chuyện là thế nào?”
“ Năm xưa loạn bảy nước một phong chiếu thư của Lương vương, phụ thân ta án binh bất động, vì thế những năm qua sở dĩ dũng mãnh tác chiến vì tính mạng toàn bộ Lý thị. Phụ thân ta nói, ngày nào còn hữu dụng với bệ hạ, ngày đó Lý thị còn bình an.”
“ Trong thư còn giải thích với ta, năm xưa sở dĩ mặc cho hai ca ca ta chèn ép ta mà không ngó ngàng gì, không phải vì không quan tâm, mà để ta tự lập môn hộ, khi Lý thị gặp họa, còn có người trông cậy vào.”
“ Năm xưa khi phụ thân ta bắn chết đương hộ Hung Nô ở Trác Châu đúng lúc mẫu thân ta sinh ra đại ca, liền đặt tên là Đương Hộ, hi vọng đại ca ta có thể đưa Lý thị tới vinh diệu.”
“ Đáng tiếc, đại ca ta chiến tử ở Bạch Đăng Sơn, rồi nhị ca ta chiến tử ở Đại Thanh Sơn ... Phụ thân ta ... Ông ấy thấy mình sống đã thành gánh nặng của gia tộc ... Nói không chừng còn hại chết ta ... Nói nếu mình không chết, con cháu không có kết cục tử tế ...”
Lý Cảm trào nước mắt, lăn theo chòm râu rơi xuống, cuối cùng giơ tay lên trời gào lớn:
Trương thị tới đưa cơm cho trượng phu, nghe thấy tiếng trượng phu gào khóc trong nhà cỏ cũng bật khóc theo, khuỵu xuống đất.
Lý Cảm đã giấu những lời này hai ngày rồi, thế gian hiện giờ chỉ có Vân Lang và Tào Tương có thể chia sẻ được. Tâm sự một khi phát tiết ra là không ngăn lại được, suốt cả đêm hôm đó Vân Lang và Tào Tương ngồi nghe Lý Cảm nói.
Vân Lang luôn cho rằng, huynh đệ tốt phải như cái hốc cây, cái hốc cây không có hồi âm, có thể chứa hết những lời bằng hữu không thể nói với ai.
Từ điểm này mà xét, y và Tào Tương làm bằng hữu rất thành công.
Nếu như không để Lý Cảm thổ lộ hết ra, trời mới biết hắn bị sự việc này hành hạ thành bộ dạng gì, trên sử sách, tên này sở dĩ ẩu đả Vệ Thanh, e bị những chuyện này áp ức thành biến thái.
Mặt trời lên, ánh nắng chiếu vào đôi mắt đỏ ửng như quả đào của ba huynh đệ, nhìn nhau đều thấy buồn cười, Lý Cảm giọng khàn đặc:” Nơi này không có ai, muốn cười thì cười đi, phụ thân ta không trách đâu.”
Tào Tương chỉ hai mắt Vân Lang cười lớn, Vân Lang thì nhìn mặt Lý Cảm mà cười, cuối cùng Lý Cảm một lòng chịu tang cho cha cũng không nhịn được, cười to hơn cả hai huynh đệ.
Trương thị quỳ trước mộ công công, nghe thấy tiếng cười ba người, lau đất trên bia mộ Lý Quảng nói nhỏ:” Khổ tâm của công công không uổng phí.”
Vì mắt Vân Lang, Tào Tương đều sưng húp không tiện gặp ai, đành cùng Lý Cảm ở trong nhà cỏ sống hai ngày cơm thô trà nhạt.
Ngày thứ ba, bất kể Lý Cảm cầu khẩn thế nào, hai người bọn họ vẫn quyết định về Dương Lăng ấp, so với để cả ba chịu khổ, không bằng một người chịu khổ, dù sao Lý Quảng là cha Lý Cảm chứ có phải cha họ đâu.
Trong thời gian Lý Cảm chịu tang, Hoắc Khứ Bệnh dẫn Hồn Tà vương về, Tào Tương tổ chức huân quý thương lượng làm sao bắt chẹt nô lệ trong tay Hồn Tà vương, Vân Lang trải bản đồ tím kiếm nơi có thể bố trí nô lệ, dự phòng người Hung Nô tạo phản.
Kỳ thực Vân Lang thấy đất Ngọa Hổ là nơi không tệ.
Mảnh đất này chẳng những rộng lớn, có thể để người Hung Nô học làm ruộng, quan trọng là mảnh đất này ba mặt núi, chỉ có hai hẻm núi thông ra ngoài.
Chỉ cần bóp chết hẻm núi, người Hung Nô mọc cánh khó thoát.
Năm xưa Lưu Triệt lựa chọn cùng phiên vương đánh cược ở đất Ngọa Hổ là thế.
Lưu Triệt không đồng ý đem toàn bộ người Hung Nô biến thành nô lệ, điều này đã thành quốc sách, viết vào hiệp nghị giữa hoàng đế và Hung nô.
Huân quý hiểu được nỗi khổ của hoàng đế, dù sao người Hung Nô hung hãn khó thuần, cũng không biết làm ruộng. Trước khi bọn họ thành nô lệ, thế nào cũng mài giũa hết tính hung hãn, dạy bọn họ trồng lương thực, với huân quý mà nói, đây là lựa chọn tốt.
Câu không thể lập tức thành nô lệ được tán đồng, vì thế bọn họ quyết định thong thả rồi tình.
Vân Lang không thấy người Hung Nô dưới chế độ thuế má hà khắc của Đại Hán có thể thành người tự do, biến một người tự do thành nô phó có rất nhiều cách, như nợ nần, phá sản, phạm tội, hoặc ... Không giữ lễ nghĩa.
Khi vố số người có tiền bức thiết hi vọng người Hung Nô không có gì phá sản, vậy những người đó không khả năng đạt được nguyện vọng tự cấp tự túc, thành nô lệ cho người ta là lối thoát duy nhất.
Người biết chuyện này đều là những người được lợi, bách tính Trường An không biết thì phẫn nộ vô cùng.
Bọn họ thề phải bảo vệ lợi ích của mình, không để người Hung Nô tới làm tổn hại, nhiều người tổ chức trai tráng trong tộc tuần tra, cứ phát hiện có ai khẩu âm không giống người Trường An là tra hỏi hết sức cảnh giác.
Hồn tà vương vô cùng cảm kích trước sự khảng khái của hoàng đế Đại Hán, khi nghe nói hoàng đế không chỉ cho họ mảnh đất màu mỡ, còn cấp cho họ bò dê, hạt giống, nông cụ, thậm chí còn phái người xây dựng nhà cửa cho họ, lòng tràn ngập hi vọng vào tương lai.
Thế nhưng tin tức tốt lành với người Hung Nô càng khiến bách tính sống xung quanh Trường An bất an, nhân khẩu đang ngày càng tăng lên, đất đai ít đi, giá trị đất đai vì thế mà tăng lên. Lúc này nhân tính xấu xa lộ ra, người bản sứ khinh người đến sau, người tới sau thì khinh người Hung Nô.
Thế là một chuỗi khinh bỉ hoàn thành.
Bất kể Lưu Triệt hay huân quý đều có chung ý đồ, không để người Hung Nô hoàn toàn hòa nhập vào Đại Hán.
Thời điểm này nước Hán là một quốc gia có kết cấu chúng tộc đơn nhất, tư tưởng bản địa còn rất nặng nề, các quốc gia thời Chiến Quốc giờ hòa nhập làm một coi là người Hán, còn lại bọn họ coi xung quanh bất kể là đông di, tây địch, nam man, bắc nhung đều là kẻ thù sinh tử, Lưu Triệt muốn giết hết cho gọn gàng.
Vân Lang ở đất Ngọa Hổ nhìn thấy hoàng đế sử dụng Hồ kỵ giáo úy là biết, những người này vĩnh viễn là vật hi sinh.
Tào Tương không sử dụng nô lệ, nên hắn là người công chính nhất phân phối nô lệ, hắn được một đám huân quý tiến cử làm người trung gian, phụ trách điều đình các loại yêu cầu liên quan tới nô lệ của huân quý.
Có công chính hay không thì Vân Lang không biết, y chỉ biết rằng Tào Tương đã dự định chia sáu nghìn nô lệ cho tông tộc Tào thị.
Số nô lệ này cực kỳ phân tán, trong đó đại bộ phận tới Quảng Lăng, nơi Tào thị đang trọng điểm kiến thiết, chẳng biết người Hung Nô ở phương bắc sống nổi ở vùng phương nam chướng khí không, dù sao Tào Tương tính kế rồi, đợi người Hung Nô tới, bồi dưỡng ở đất Ngọa Hổ trước, rồi đợi vận chuyển các nơi.