Đến tối Bành Tẩu mới đến thăm, mang theo ít rau thịt cho Trác Cơ, thấy nàng chiếm phòng của Vân Lang, tâm tình rất tốt, sau khi trò chuyện với nàng một lúc thì ra mái hiên uống trà với Vân Lang.
Mè được rang chín, dùng tay nhón từng hạt một ăn, rất hưởng thụ.
“ Nghe Đại nữ nói, tiểu lang chuẩn bị đưa lương thực tới Thượng Lâm Uyển, đã có kế rồi chăng?” Bình Tẩu hỏi:
Vân Lang cười nhẹ: “ Lấy chân thành đổi chân thành thôi.”
“ Đó mới là chính đồ, tiểu lang một thân một mình hành tẩu trên thế gian hiểm ác, nên cẩn thận từng bước đi mới lâu dài được. Lấy tiền mua thì không có trung thành, cướp về thì chỉ có hận, lấy chân thành mà đổi, nếu tiểu lang có thể phân biệt kẻ lòng dạ bất tắc trong đó, tất nhiên là ổn nhất, âm dương hài hòa mọi chuyện mới xuôn xẻ. Không biết bao giờ tiểu lang khải trình?”
“ Dù sao phải đợi Hoắc Khứ Bệnh ra đã, chứ bằng vào một mình ta, không thể chuyển nhiều lương thực như thế ra ngoài.”
Bình Tẩu gật gù:” Muộn chút cũng tốt, muộn chút cũng tốt, chưa tới tuyệt cảnh, người ta không cảm thụ được ý nghĩa của cứu trợ, âm cực sinh dương là thế.”
“ Chỉ là lương thực thiếu một chút.” Vân Lang thở dài:
Bình Tẩu đánh miệng lên trên lầu, sau đó vỗ vai Vân Lang đầy ẩn ý, tiêu sái cáo từ.
Mưa đã hoàn toàn dứt vài ngày, trút hết lượng nước tích trữ bao lâu, hôm nay trời rất trong, ánh trăng tận tình chiếu rọi mặt đất, khung cảnh nhốn nháo ban ngày nhường chỗ sự tĩnh mịch bóng đêm. Một con sông nhỏ lặng lẽ chảy qua như dải phân cách như dải phân cách Đại Hòe Lý với khu vực khác trong thành, ở nơi này mái ngói, tiểu lâu nối nhau san sát, loáng thoáng nghe đâu đó tiếng đàn ca.
Tõm!
Một con ếch nhảy cái ao lớn ở hầu phủ bên cạnh, nước bắt lên mặt tường loang lổ rêu xanh và dây leo, đêm đã khuya, vẫn có ánh đèn le lói rọi ra từ trong ô cửa sổ hẹp từ tiểu lâu hai tầng sát tường, còn có tiếng xoàn xoạt ...
Nhìn qua ô cửa sổ, chỉ thấy căn phòng đơn giản với bao lớn nhỏ chất cao sát trần, trên bàn có một ngọn đèn dầu mù mờ, Vân Lan lên phòng thì thấy Trác Cơ đang ngồi trên giường dùng dao vót trúc, sấy khô, đục lỗ, dùng thừng gân trâu xuyên thẻ trúc vào với nhau, y từng làm chuyện này, rất vất vả, không như nàng, dù mồ hôi chảy ra ở tóc mai cũng toát lên mỹ cảm.
Người đọc sách cầu kỳ một chút đều tự mình chế tác thẻ sách, thậm chí chuyện sấy khô thẻ trúc cũng có yêu cầu nhất định, hiển nhiên Trác Cơ cũng là người như thế, nhìn màu thẻ trúc trong tay nàng thì nàng thích trúc vỏ xanh.
Thấy Vân Lang đứng dựa bên cửa nhìn mình, Trác Cơ đặt thể trúc xuống: “ Vừa định làm một bài phú, kết quả làm xong lại chẳng có tâm tư nào.”
Vân Lang bấy giờ mới phát hiện mình bất tri bất giác đứng nhìn nàng rất lâu rồi, may nàng không phát hiện, chỉ cái đàn Bình Tẩu vừa mang tới:” Mưa lạnh liên miên, nạn dân kêu khóc, quan lại quát tháo bất tuyệt bên tai, dù có thi hứng nên đợi sau này hẵng làm, lúc này chẳng bằng nghe nàng đánh đàn.”
Trác Cơ lắc đầu: “ Tri âm ít.”
Chuyện này Vân Lang tò mò lâu lắm rồi, trong dân gian lưu truyền rất nhiều, không rõ thực hư:” Nghe nói nàng và Tư Mã Tương Như một khúc đàn mà hẹn ước?”
Trác Cơ khẽ cắn môi quay đầu đi:” Nam tử bạc tình bội nghĩa.”
Mặc dù nàng đã cúi đầu xuống, chỉ trong thoáng chống ánh mắt thương cảm đó khiến người ta đứt ruột gan, Vân Lang hiểu Trác Cơ đã lún quá sâu vào tình cảm đó, cho nên dù biết hắn phản bội mình vẫn không dứt bỏ được.
“ Cái này đúng, nam nhân nói chung đều thế, có mới nới cũ, tham hoa háo sắc.” Vân Lang gật đầu không hỏi chuyện lương thực nữa, lặng lẽ đi xuống lầu:
Thân là người từng trải, làm sao không nhận ra tình cảm của Trác Cơ, ngay cả trước kia với tướng mạo không hề tệ, biết ăn nói, lại khéo léo, y rất có duyên với nữ nhân.
Quá trình từ lúc quen biết tới yêu đương luôn mỹ lệ lãng mạn, chỉ là tới lúc bàn bạc chuyện kết hôn thì chuyện lại phát sinh biến cố.
Những cuộc cãi vã không hồi kết, giận dỗi, rồi nói cả những lời khiến đối phương đau lòng,
Là cô nhi trọng tình, khao khát tình cảm mình thiếu thốn, coi tình cảm nặng hơn tính mạng, y cố cứu vớt, vì thế quyết định đi xa một chuyến để cả hai bình tâm lại, câu cuối cùng nghe được từ bạn gái là "đừng về nữa", y không về thật.
Y đã cố níu kéo tình cảm đó, giống như Trác Cơ lúc này.
Ánh trăng lạnh lẽo trải khắp mặt đất, liên tục nhiều ngày âm u, trăng xuất hiện, trong trẻo, sáng rực. Không khí chứa quá nhiều hơi nước, khiến ánh trăng như biến thành vật hữu hình, từng sợi nhẹ buông xuống nhân gian.
“ Đại Vương lúc này chắc đang ngắm trăng.”
Tuy ánh mắt bị cây cối, tường cao, núi non che khuất, Vân Lang tưởng chừng nhìn thấy có con hổ ngồi trên núi cao, hướng về phía ánh trăng gầm gừ, bên cạnh có ông già thất thần nhìn ngọn đồi đen xì.
Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, liệng quanh ba vòng, đậu cành nào đây?
“ Cầm chén hát chơi, đời người mấy chốc ... tựa như sương mai, ai chẳng sầu tủi ? ... Đứng dậy khảng khái, nhưng buồn theo mãi ... Áo xanh cổ cứng, lòng sầu hôm mai, thôi đừng nhắc mãi ...”
“ Hươu kêu đồng vắng, cỏ mềm ngẩn ngơ ... Nhà đông khách quý, đàn sáo thâu đêm ...Mảnh trăng trên trời, bao giờ hết sáng? ... Nỗi buồn ai hay, vương vấn vơi đầy , một đời gió bụi ... Ly hợp một đời, mong người tri kỷ”
“ Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, liệng quanh ba vòng, đậu cành nào đây?”
“ Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, liệng quanh ba vòng, đậu cành nào đây?”
“ Trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam, liệng quanh ba vòng, đậu cành nào đây?”
Có lẽ trong lòng đồng cảm, Vân Lang hát câu này liền ba lần rồi ngã lăn ra đất.
….
Ánh ban mai tựa như dòng suối mùa xuân đang tan chảy, xua đi màn đêm u tối, xua đi nỗi buồn không tên.
“ Tối qua ngươi hát đấy.” Trác Cơ ngồi trên ban công lầu hai, nhìn thấy Vân Lang từ phòng Sửu Dung đi ra, tay chống cằm, đôi mắt long lanh như bảo ngọc nhìn xuống nói:
Vân Lang đầu đau như búa bổ, tối qua được đám Lương Ông kéo vào phòng Sửu Dung thì vẫn còn có chút tri giác, về sau không biết gì nữa.
Thứ rượu quỷ quái ở thời này, độ rượu không cao, uống cũng chẳng ngon lành gì, mà uống vào hành người ta chết đi sống lại, miệng khát khô, nhưng trừ Lương Ông ngồi ở sân tắm nắng trông nhà thì chẳng thấy ai.
“ Có gì lạ, con người ta đa tài đa nghệ, thi thoảng hát một bài, lần sau sẽ hát cho nàng nghe bài hay hơn, quấy rầy giấc ngủ của nàng rồi.” Vân Lang cũng biết uống rượu vào rất hay hát, nhưng mà giọng y không ra gì, cái này y tự biết:
“ Không phải, mà bài đoàn ca ngươi hát không tệ, chỉ thiếu đi câu kết, khiến cho cả bài ca chỉ có thương cảm mà không có khí thế núi cao sông lớn, rơi vào hạ thừa.”
Nhìn vẻ mặt đầy luyến tiếc của Trác Cơ, Vân Lang chau mày nghĩ mãi không ra mình hát gì, tò mò hỏi: “ Có chuyện này à? Rốt cuộc ta hát gì mà khiến nàng cảm khái như thế?”
Trác Cơ giọng buồn buồn:” Xem ra cũng chỉ là linh cảm bất chợt thôi, cũng phải, ngươi còn quá trẻ, nếu thêm mười năm nữa, thêm lịch duyệt cuộc sống, biết đâu hoàn thành được đoản ca này. Cũng may ta ghi nhớ rồi, nếu không một bài cơ hay bị lãng phí, nghe nhé.”
Cầm chén hát chơi
Đời người mấy chốc
Tựa như sương mai,
Ai chẳng sầu tủi
Mới nghe câu đầu, Vân Lang mồ hôi chảy ròng ròng, đây là bài Đoản ca hành của Tào tháo.
Tào Tháo hát bài này, sau đó bị Chu Du cho bó lửa đốt đít chạy bán sống bán chết, Vân Lang thì nghe Trác Cơ đọc lại mà thấy như có thanh quỷ đầu đao kề vào cổ.
Chết rồi! Bài này tuyệt đối không hợp để hát ở thời đại này.
Y chỉ muốn bịt miệng Trác Cơ lại, nàng đứng tầng hai, giọng trong lại cao, đoán chừng cách cả phố vẫn nghe được.
Ở Đại Hán mà hát bài này không có kết cục tốt, dù Tào thừa tướng cũng thế, vì câu cuối cùng là.
Núi chẳng ngại cao
Nước chẳng sợ sâu
Chu công phủ dụ,
Thiên hạ đi theo.
Thiên hạ đi theo? Ngươi muốn làm phản à? Riêng câu này đủ băm Vân Lang làm mười tám khúc rồi.