Không Lối Thoát - Xuân Sắt

Chương 88

Nửa đầu bức thư quả thật là chuyện Sầm Vũ và Hạ Hòa thành hôn; hai người hiện giờ sống rất yên ổn, chỉ là vẫn thấp thỏm vì sinh hoạt của Lộ Huấn và Tư Nam, hai nhà cha mẹ cũng hết sức lo lắng cho đôi trẻ, cứ bám theo Sầm Vũ mà hỏi tin tức liên miên.
May mà Sầm Vũ đã giấu kín chuyện Tư Nam mang thai, nếu không hai bên cha mẹ ắt hẳn náo loạn cả lên.

Nửa sau lại nói về Tống Thanh Thư: sau khi kết thúc việc ở Kiềm Châu, hắn không chọn đi Ninh Châu và các quận khác gần kề, mà sốt ruột vội vàng lao thẳng đến Duyện Châu.

Tòa thành cổ xưa ấy tuy đã nằm dưới sự thống trị của Đại Dung nhiều năm, nhưng vẫn chưa thật sự quy thuận và chịu giáo hóa, chỉ treo trên danh nghĩa mà thôi. Trên danh sách là lãnh thổ Đại Dung, chịu nộp thuế khóa, không gây chuyện, thì Đại Dung cũng mặc kệ.

“Trời cao hoàng đế ở xa” tại đây được phô diễn đến tột cùng. Thực tế, Duyện Châu còn chưa ngoan ngoãn bằng mấy tiểu quốc kia.

Mộc phủ cắm rễ ở đây đã rất lớn mạnh; đời này Thứ sử là Mộc Phong, từng vào Ngọc Kinh bẩm báo công việc, yết kiến cả tiên đế; từ đó Duyện Châu với Ngọc Kinh mới coi như khăng khít hơn đôi chút.

Sầm Vũ không rõ ngọn ngành, chỉ biết Đoan Vương ở Duyện Châu không được thuận lợi, chẳng rõ vì cớ gì mà thậm chí đại khai sát giới, dùng quân trong tay san phẳng đám phủ binh phản kháng của Mộc phủ.

Còn Thứ sử Duyện Châu Mộc Phong thì giục khoái mã dâng biểu, tố Đoan Vương cố ý trả thù, tàn hại bách tính, làm nhục trung lương, trong mắt không vương pháp…

Đôi bên về sau bùng nổ một phen tranh đấu cực kịch liệt, vì vậy Đoan Vương mới sơ suất mà vong mạng…

Việc này ầm ĩ lớn vô cùng; chẳng biết là ai xúi giục, mà khắp Đại Dung đều đã hay. Phố phường ngõ hẻm, trà dư tửu hậu chỉ bàn mỗi chuyện ấy.

Dân chúng thì khen Đoan Vương cương trực công chính, vì dân làm chủ; còn thế gia quý tộc lại mạnh mẽ lên án, nói hắn làm xằng làm bậy, trái đức loạn pháp…

Sầm Vũ và Hạ Hòa thành thân xong liền về Định Xa; Sầm Vũ rốt cuộc cũng có gia thất, bên Định Xa vẫn còn phụ thân để đoàn tụ cuối năm, lẽ thường đều nên như thế.

Cuối thư nói thêm, ý kiến của Sầm Vũ khá khách quan, tất thảy chỉ là suy đoán: hoặc Đoan Vương đang mưu đồ điều gì trong bóng tối, hoặc cũng có thể quả thật đã chết; tạm thời mấy mối tin này còn rối mù khó gỡ.

Định Xa cách Thổ Khâu cũng khá xa, thư chạy nhanh nhất cũng phải nửa tháng mới tới; đủ thấy chuyện này đã xảy ra cũng được một khoảng kha khá.

Tim Tư Nam khẽ run, cả người tê dại, bất lực tựa lên khung cửa mộc đơn sơ, ôm bụng th* d*c.

Nàng cúi nhìn bụng, khẽ cảm thán: đứa nhỏ này… đến không đúng lúc.

Thấy sắc mặt nàng trắng bệch, Lộ Huấn vội đỡ: “Ta đã bảo không có gì, nàng lại một hai đòi xem. Hắn bây giờ làm những chuyện ấy, là tự đẩy mình gần tử lộ hơn thôi. Với chúng ta thì lại là tin tốt. Ta chỉ sợ nàng thấy mấy chữ ‘đã chết’ sẽ buồn bực, nên mới không cho xem…”

Trong lòng y còn có nỗi lo sâu hơn: dạo này nỗi bồn chồn của Tư Nam ai cũng trông thấy; đêm đến thường gặp ác mộng, miệng mấp máy lạnh lẽo gọi cái tên kia.

Là trượng phu, y vừa chua xót vừa áy náy; nhưng đối phương là một vị Vương gia của Đại Dung, y vĩnh viễn không thể đấu nổi.
A Nam nay lại mang thai, y vui mừng khôn xiết, lại càng sợ bởi đó mà sinh chuyện; với y, A Nam mới là trọng yếu.

Tư Nam vò vò bức thư, theo Lộ Huấn vào phòng, cẩn thận nằm xuống giường, mắt ngẩn ngơ nhìn tấm chăn gấm thêu “trăm tử ngàn tôn”.

Nghĩ đi nghĩ lại, nàng dằn lòng tự nhủ: “Hắn sẽ không chết dễ dàng như thế. Đám binh ấy vốn mượn tay hắn bình định Kiềm Châu; mà hắn chưa đợi xong đến hạn đã lập tức bổ nhào sang Duyện Châu, tuyệt chẳng phải bắn tên vô ích, ắt là có điều mưu toan.”

Nàng không tự luyến, cũng chẳng suy diễn hồ đồ; chỉ dựa vào chừng ấy năm giằng co mà hiểu đôi phần về Tống Thanh Thư.
Kẻ đó, quả thật là bậc “oan có đầu, nợ có chủ”, có thù tất báo bậc nhất.

Thấy nàng run rẩy, hồn vía lạc đi, Lộ Huấn nóng ruột: “A Nam, đừng quá bi quan. Nhỡ đâu hắn thật đã chết thì sao? Chúng ta dưỡng thân cho tốt, mặc ngoài kia gió tanh mưa máu; hắn cũng chẳng tìm ra nơi này.”

Nhìn đối phương mồ hôi ròng ròng, Tư Nam vội hoàn hồn, tự biết mình hơi cực đoan. Trong bụng thoáng đau nhói, nàng bèn điều tức, cố gắng bình tâm trở lại.

“Lộ Huấn, mấy cơ quan ám khí ta từng mua, lần trước Sầm Vũ không phải đã đưa lại đây cả rồi sao?” Nay thân thể nặng nề lại không được khoẻ, nàng biết mình không thể động đậy bừa; chỉ có thể mượn vật. “Mau, lấy ra hết, hai hôm nữa ta phải bày bố lại.”

Lộ Huấn chỉ còn biết vâng lời. Y hiểu Tư Nam chẳng có cảm giác an toàn, nhất là từ khi mang thai; nếu không để nàng làm chút gì, e đêm nay lại khó ngủ.

“Được, nàng đừng động. Chỉ cần nói, để ta bày.”

Tư Nam nhìn Lộ Huấn lôi đồ ra, bèn cầm lấy một món để trong tay: đó là dạng nỏ, nhưng nạp gần ba trăm chiếc kim thêu; chỉ cần ấn cơ quan, kim sẽ b*n r* trong chớp mắt, biến kẻ địch thành con nhím. Uy lực lớn, chế tác tinh xảo, dùng da thuộc và mộng gỗ khớp nối, vô cùng tiện dụng.

Những món này đều là “kỳ kỹ dâm xảo”, chỉ một số thợ lành nghề mới làm được; nàng khó khăn lắm mới kiếm cho bằng được.

Ngoài ra còn nhiều vật bày biện trong nhà. Vì nhà cửa nơi đây không như ở Nguyệt Thị có thể chỉnh trang từ đầu, chỉ đành đặt ngoài bề mặt, coi như đồ “trang trí”; tuy có đôi phần bất tiện cho sinh hoạt hằng ngày, nhưng cũng tạm yên lòng.

Bày biện xong xuôi, thật khéo bắt gặp nắng ấm; hôm ấy Tư Nam ngồi phơi nắng trên giường mây ngoài sân, khẽ vuốt bụng, cau mày rồi dần dần thiếp ngủ.

Cuối năm đến, ngày đoàn viên, phố phường càng thêm náo nhiệt. Người bán câu đối, bùa phúc; gà vịt cá thịt, hàng khô đậu rang bày la liệt.

Lúc này ở Duyện Châu, dù bầu không khí u ám bao trùm, bách tính vẫn không quên đón Tết: hương khói lễ Phật, đốt vàng mã, không thiếu thứ nào.

Phúc Tử khi ấy còn đang ngoài đường dò tin; về phần người của Tướng quân Ngũ Dương, hạn kỳ đã đến, đều trở về bẩm báo công việc.

Hắn ta ngẩn ngơ nhìn đầu phố kẻ qua người lại, chen chúc ồn ào, chỉ thấy con đường trước mặt mù mịt. Ngày ấy Vương gia “chết giả” trước mặt mọi người, lại cố ý để khắp nơi loan tin hắn đã vong, nhất là dặn đám thương đội truyền đi xa nhất.

Phúc Tử không ngốc; theo Vương gia lâu ngày cũng đoán ra đôi chút: làm vậy đơn giản là để dọa cho kẻ hắn muốn hiện thân phải lộ diện.

Xét cho cùng, Vương gia vẫn không buông nổi Nặc Nặc cô nương. Gần mười năm rồi, đoạn nghiệt duyên này vẫn còn dây dưa. Hắn ta vốn đã chẳng hiểu nổi Vương gia, dù xưa nay cũng chưa từng hiểu.

Sau khi khom lưng va vai chúc tụng qua loa với người, Phúc Tử lại nhìn quanh một vòng; thấy không ai để ý mới tính trở về báo cáo.

Viện nhỏ xây bằng tảng đá bốn bề. Tống Thanh Thư ngồi bên giếng, lặng lẽ nhìn bức thư trong tay, do người của Ngũ Dương đưa đến, dặn hắn không được hồi Ngọc Kinh, chí ít trước khi việc này kết thúc, tuyệt đối không thể trở về.

Trong thư còn nói, chờ hắn quay lại, Ngũ Dương sẽ kể cho hắn nghe vài chuyện, là chuyện về mẫu phi của hắn.

Tống Thanh Thư nhếch môi cười lạnh, trong mắt chẳng còn chút ấm nào. Hắn khẽ hừ một tiếng: việc còn dang dở, đương nhiên chưa thể quay về; còn như chuyện mẫu phi, thật ra hắn cũng chẳng mấy để tâm.

Bao công phu bỏ ra bấy lâu, kỳ thực chỉ vì một nữ tử. Chừng nào chưa bắt được nàng, hắn ăn không ngon ngủ không yên, đêm đến cũng chẳng chợp mắt.

Về phần hoàng huynh, ảnh vệ ắt đã chuyển đủ loại tin tức hồi kinh; chỉ cần tấu của Mộc phủ chất chồng như núi, hoàng huynh hẳn cũng bỏ qua cho lần “làm càn” này của hắn, chỉ là tạm thời cần né bớt mũi nhọn mà thôi.

Tên Mộc Phong ấy thật to gan lớn mật, hết lần này đến lần khác khiêu khích hắn. Đúng lúc hắn cần chút thời gian, lại vừa hay có kẻ “trong tầm tay”.

Mượn công báo tư thù, ở Ngọc Kinh hắn đã quen làm.

Lần trước ở Kiềm Châu chém giết thứ dân lẫn man di, quả là bất đắc dĩ; sự việc tiến triển quá chậm. Hơn nữa, kẻ đến ám sát hắn đâu chỉ người của Mộc Phong, ở giữa thậm chí còn có kẻ từ Ngọc Kinh.

Hắn hận Mộc Phong khiêu khích, bèn nghĩ ra một nước cờ “kim thiền thoát xác”: vừa trả mối thù năm nào, vừa tranh thủ rảnh tay đi bắt nữ tử kia; cũng tiện khiến đám người muốn lấy mạng hắn tạm phải im hơi lặng tiếng.

Hắn từng nói rồi, đất Duyện Châu, hắn muốn nhổ lên từng tấc một.

Vụ này, Mộc phủ bị hắn san phẳng, người chết tất nhiên không ít; chỉ e Đại Dung sẽ cần không ít thời gian để yên ả trở lại, nhất là hoàng huynh, phải đứng ở đầu triều mà thu dọn trận bụi mù ấy lần nữa.

Mỗi khi nghĩ đến, hắn liền thấy làm hoàng đế đúng là nhọc lòng, làm khó hoàng huynh quá đỗi.

Việc triều chính vốn chẳng khiến cho người ta sảng khoái; nếu giao cho hắn, ắt cứ thế thẳng tay ủi qua, tân chế thi hành tiến thẳng không lùi, đâu cần rề rà lâu vậy.

Bấy giờ ngoài sân khẽ vang động. Mắt hắn vừa nhấc, ánh nhìn sắc lẻm: “Ai?”

Phúc Tử rụt rè bước vào: “Vương gia, là ta.”

(*) hiện tại Tống Thanh Thư đang ẩn náu, Phúc Tử cũng được nâng đỡ không còn là kẻ đi theo lau giày cho hắn nữa nên để xưng hô thoải mái hơn.

Thấy là hắn, Tống Thanh Thư thả lỏng: “Việc làm đến đâu rồi?”
Phúc Tử gật đầu: “Tin tức đã lan ra khắp nơi, chỉ là phía ảnh vệ còn chưa hồi đáp.”

Hắn ta ấp úng, cuối cùng lấy can đảm thưa: “Vương gia, ngài làm vậy, tương lai Hoàng thượng liệu có truy cứu hay không? Huống chi Mộc Phong cũng là thứ sử, thủ đoạn ngài quá cường ngạnh, chỉ sợ khiến những người khác…”

Tống Thanh Thư nhạt giọng cười: “Yên tâm. Ban đầu ta cũng tưởng mình khó có kết cục tốt. Nhưng ngươi cũng thấy rồi, gia sản Mộc phủ giàu đến kinh người. Phúc Tử, bấy nhiêu cũng đủ bịt miệng thiên hạ.”

“Nhưng sao ngài không dứt khoát đường đường chính chính tiếp tục thi hành? Như vậy Hoàng thượng ắt hiểu ngài là bất đắc dĩ.” Phúc Tử không dám nói thẳng, chỉ vòng vo: “Giờ ngài làm thế này, lỡ Hoàng thượng biết, đến lúc đó…”

Tống Thanh Thư phẩy tay, sắc mặt bình đạm: “Không cần nói nữa. Cơ hội khó có. Giờ không bắt nàng, sau này càng khó.”

Nữ tử ấy còn nhạy bén hơn cả kẻ cắp; dịp tốt thế này, là lúc xuống tay.

Phúc Tử đầy vẻ khó xử, lại sợ Vương gia phật ý. Dẫu dân chúng sùng bái Vương gia, bọn thế gia thì hận đến tận xương. Vả lại Vương gia rốt cuộc cũng chỉ là Vương gia, được dân yêu mến chưa hẳn đã là chuyện hay.

Hắn ngẩng nhìn trời. Hôm qua còn mới rắc một lớp tuyết mỏng, nay mặt trời đã lấp ló, song khí lạnh còn tăng. Đường sá lầy lội, tuyết tan bị người giẫm đạp, bị nắng hong thành bùn đen, chẳng còn nhận ra sắc trắng.

Hắn ngắm đến xuất thần, khá lâu mới nói: “Cũng nên đến rồi.”

Lời vừa dứt, ngoài sân liền vẳng tiếng kẽo kẹt, bước chân đạp trên tuyết, nhẹ mà chậm, nếu không có tuyết, e chẳng nghe ra.
Hai người đều sầm mặt, lặng lẽ áp ra sau cửa. Gật nhau một cái, Phúc Tử bất thần mở then.

Ảnh vệ còn chưa kịp vào, một tia hàn quang đã quét tới. Y lập tức giơ tay đỡ, thuận miệng quát khẽ: “Vương gia, là ta.”

Tống Thanh Thư thu kiếm, mắt sáng rực nhìn chằm chằm: “Có tin?”

Ảnh vệ gật: “Phương bắc xuất hiện dấu vết của nàng. Tin Vương gia đã ‘vong’ cũng truyền khắp; tạm thời không ai biết tung tích hiện tại của ngài.”

Tống Thanh Thư vừa lòng gật đầu: “Tốt. Lên đường.”

Mặc kệ nàng ở đâu, chung quy vẫn không thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Phúc Tử vội níu lại: “Vương gia, không được. Giờ Thổ Khâu tuyết lớn, không thể tùy tiện xuất phát. Vẫn nên đợi sang xuân. Ảnh vệ của Hoàng thượng còn chưa rút hết, ta e lỡ để lộ dấu vết, vạn nhất lại bị cô nương…”

Câu sau hắn ta ngậm lại, bởi thấy Vương gia siết chặt tay, gân xanh nổi lên, nghĩ đến chuyện cũ, Vương gia thực lòng để ý.

Tống Thanh Thư ngửa đầu nhìn thẳng vầng dương, cố hít sâu thở đều, ép mình bình tĩnh: “Được. Vậy chờ thêm mấy ngày.”

Tiểu viện vẫn lặng như tờ, nhưng trên điện Ngọc Kinh thì ầm y như vỡ chợ.

Trái ngược với giá lạnh ngoài trời, trong triều khí thế ào ạt, suýt nữa hất tung mái ngói.

Gia Ninh Đế an tọa trên long ỷ, nét mặt cứng đờ. Trong lòng ngấm ngầm trách A Thư làm càn, song nhìn bách quan huyên náo, lửa giận cũng bốc lên đến nghẹn cổ.

Giờ y đã quyết tâm thúc đẩy tân chế cho đến nơi đến chốn. A Thư tuy ầm ĩ, nhưng gia sản Mộc phủ giàu đến kinh ngạc, bảo “phú khả địch quốc” cũng chẳng quá, tính kỹ thì A Thư chính là lập được đại công.

Đặc biệt là nhà họ Vương, Vương Tư Không đã vào Thái Miếu, con trai thứ của Vương gia giữ tam phẩm đương triều, xưa nay vốn bị Tống Thanh Thư đè đến không ngóc đầu nổi. Từ khi nghe chuyện “lạm sát kẻ vô tội”, gã liền dâng sớ nối sớ hạch tội.

Hôm nay càng quỳ ngay giữa sân rồng, sống chết không chịu đứng lên.

Gã cũng khôn ra: không tự mình xông xáo, mà là xúi mấy kẻ cò con còn đi theo nhà họ Vương khóc lóc trên điện. Phụ thân đã khuất, đám người từng vây xoay quanh Vương gia cũng tan tác quá nửa, mấy mối hôn sự của con gái đến kỳ gả chồng cũng bị toang cả.

Vương gia nhà họ Vương và Đoan Vương, chính là không đội trời chung.

Một đám người thay nhau lạnh giọng buộc tội Tống Thanh Thư, nước miếng bắn như mưa.

“Hoàng thượng, một ngàn thứ dân và man di ở Kiềm Châu uổng mạng; Thứ sử Duyện Châu lại chết chẳng rõ ràng. Hành tung tàn bạo vô đạo của Đoan Vương tuyệt không dừng ở đó. Thần còn đặc biệt tra xét: trước kia, khi đi Tịnh Châu, Đoan Vương đích thân vung kiếm chém không ít thứ dân…”

“Hoàng thượng, lần này Duyện Châu thương vong vượt quá năm nghìn. Các vị thứ sử chỉ e đều thấy môi hở răng lạnh. Thiên hạ này, chẳng lẽ là cảnh tượng tiên đế mong thấy? Hoàng thượng…”

“Chuyến này của Đoan Vương thực khiến người ta không thể gật bừa. Trước ở Ngọc Kinh cũng đã có người thương vong. Hoàng thượng, lẽ nào cứ để hành động nghịch thiên như vậy còn tiếp tục? Cái tân chế trái đức nghịch lý, quái đản tà mị này, không thể thi hành nữa…”

“Hoàng thượng, Đoan Vương tuyệt đối không thể để tiếp tục…”

Đám người kia khóc lóc kêu gào, nước mắt nước mũi dàn dụa, hiệu quả lại chẳng tệ chút nào, có không ít người bắt đầu tỏ vẻ chán ghét, cũng có kẻ phụ họa theo.

Rốt cuộc, kể từ khi tân chế thi hành, quả thực chất lượng cuộc sống của bọn họ giảm sút. Trước kia ăn một bữa cơm có năm mươi người hầu hạ, giờ chỉ còn mười, bất tiện vô cùng, lại chẳng còn chỗ để phô trương vinh hoa thế tộc.

Lúc này, một người cầm ngọc hốt bước ra, mím môi nheo mắt, vẻ mặt đầy bất mãn.

“Hoàng thượng đăng cơ chưa bao lâu, cần cù chăm chỉ, chưa từng chậm trễ một ngày, đối đãi quần thần cũng chưa từng bất công. Khi xưa Thái hậu Từ An buông rèm nhiếp chính, việc gì cũng đặt bá tánh lên hàng đầu…”

Trịnh Thông, lần hiếm hoi vào Ngọc Kinh, vốn định nhân dịp này tấu trình Hoàng thượng về những biến đổi to lớn ở Ngân Châu mình cai quản, chia sẻ kinh nghiệm trị dân. Nào ngờ vừa đặt chân vào triều, đã gặp phải cảnh tượng rối ren như thế này.

Tuy y không phải người tài giỏi xuất chúng, nhưng tấm lòng lại ngay thẳng, thật tâm vì dân. Chịu ở lại vùng hẻo lánh, chỉ để làm điều lợi cho bá tánh, như vậy đã đáng quý. Trong lòng tuy cũng khinh ghét Đoan Vương phóng túng trụy lạc, nhưng với tân chế, y giơ cả hai tay hai chân tán thành.

Giờ phút này bệnh cũ tái phát, thích nói mấy lời nịnh hót, y lại đứng đó vỗ mông ngựa nửa ngày, mà chưa nói được câu trọng yếu.

“Hoàng hậu nương nương lại càng cần kiệm, bên người chỉ có một đôi tay của tỳ nữ hầu hạ mà thôi…” Mắt thấy sắp sửa khen đến tiên đế đến nơi.

Gia Ninh Đế sắc mặt đã sa sầm, Trịnh Thông mới chợt tỉnh.

Y hít sâu, nói lớn: “Đoan Vương dám đi đầu, buông bỏ vinh hoa, còn chư quân các vị? Trong phủ tỳ nữ, sai vặt hàng trăm, hàng nghìn, vẫn khư khư chẳng chịu thả. Những kẻ ấy cũng đều là con dân Đại Dung! Nếu thả họ ra, Ngọc Kinh còn lo gì ruộng tốt không người cày? Nay chỉ là tổn hao một chút lợi ích của các ngươi, vậy mà lại lên triều gào khóc đòi công đạo, chẳng qua là muốn nhặt lại chút tiện nghi thôi!”

“Con dân Đại Dung là căn cơ lập quốc của Đại Dung.” Trịnh Thông nói, liếc về phía Vương gia, khẽ “phì” một tiếng, vẻ mặt nghiêm nghị, lời lẽ chính trực: “Trịnh Thông ta lấy làm nhục khi phải đứng cùng hàng với bọn người như vậy.”

Y vốn đã mang dấu ấn sủng thần của Hoàng thượng, chỉ cần bước theo sát chân vua, tương lai danh lợi đều trong tầm tay. Còn những người kia, chỉ là bọt nước trôi trong dòng lịch sử.
Vương Tư Không chết rồi; cùng lắm, chỉ còn lại tấm bài vị trong Thái Miếu mà thôi.

Sắc mặt Vương Chiêu Khí trắng bệch, chỉ thẳng tay giận dữ: “Bây giờ đang nói chuyện gì? Là nói Đoan Vương tàn sát bá tánh, giết hại thứ dân! Trịnh đại nhân vừa ở chốn hẻo lánh về Ngọc Kinh, chẳng lẽ còn không rõ tình thế sao?”

Trịnh Thông nghe vậy trừng mắt giận dữ. Ngân Châu tuy nhỏ, nhưng trị dân tốn bao tâm huyết, dân chúng đều tặng y ba tấm “vạn dân tán”, cầu y đừng rời đi. Cảm giác thành tựu ấy khiến y say mê, bọn người kia sao hiểu được?

Giọng y vang dội, đầy khí thế: “Tân chế Đoan Vương thi hành, tất nhiên có kẻ nhân cơ hội gây loạn. Dù thứ dân chết thảm, cũng chưa chắc không có người cố ý xúi giục. Các ngươi trong phủ nô tỳ đầy nhà, nếu thứ dân chạm vào ngươi, chẳng lẽ ngươi không đánh chết sao? Nay lại lên triều bày bộ mặt ‘chính nghĩa’, ta thấy, đúng là hành vi tiểu nhân!”

Lời ấy khiến không ít người đỏ mặt.

Từ khi tân chế thi hành, thật ra bọn họ chẳng tổn thất bao nhiêu. Trái lại, đám thứ dân được chia ruộng tốt còn cảm tạ chủ cũ, tự mang lương thực đến trả ơn, còn nhiều hơn trước kia, không thể nói lafk hông có niềm vui bất ngờ.

Thấy Vương Chiêu Khí đỏ bừng mặt, Gia Ninh Đế ngồi trên cao cũng chẳng hề ngăn lại, Trịnh Thông bèn nói tiếp: “Thần cho rằng nên tra kỹ ngọn nguồn vụ náo động, biết đâu có kẻ giật dây trong đó…”

Vừa nói, y vừa nhìn Vương Chiêu Khí, ánh mắt khinh miệt: “Rốt cuộc, chuyện như thế này đâu phải chưa từng xảy ra.”

Buổi chầu hôm ấy kết thúc, Gia Ninh Đế tâm trạng cực tốt, ôm tiểu công chúa Hương Hương hôn lấy hôn để.

“Ninh Hải, ngươi ngoan nào.” Y cười tươi như hoa: “À, đi lấy cho trẫm cây bút lông sói mới đặt ở ngự án, tự tay trẫm tặng Trịnh Thông.”

Ninh Hải biết hoàng thượng cao hứng, vội vã lĩnh mệnh: “Dạ, nô tài tuân chỉ.”

Sau đó, theo lệ thường, Gia Ninh Đế đến Thọ Diên Cung thăm mẫu hậu, kể hết chuyện buổi triều sáng, giọng điệu tràn đầy đắc ý.
Không ngờ Từ An Thái hậu lại lạnh mặt: “Người định nâng đỡ hắn thật lòng, hay là cố ý đẩy hắn vào chỗ chết?”

Gia Ninh Đế kinh ngạc: “Mẫu hậu, sao lại nói vậy? A Thư làm việc rất tốt mà.”

Thái hậu nằm trên giường, sắc mặt nhợt nhạt: “Người cho người, lại cho tiền, người chắc rằng hắn sẽ mãi trung thành với người sao? Giờ người cũng biến mất rồi. Hoàng đế à, người có quên sau khi đăng cơ, người đối đãi các huynh đệ khác thế nào không? Người không sợ hắn quay lại cắn ngược sao?”

Gia Ninh Đế cúi đầu im lặng. Quả thật, tiên đế chưa từng ngăn cấm y và A Thư tranh quyền. Cuối cùng, chỉ còn lại hai người họ; còn những hoàng tử khác chết thế nào, y đều biết rõ.

“Ai gia già rồi.” Từ An Thái hậu khẽ thở dài. “Trước kia khuyên người, người chẳng nghe. Giờ ta cũng chẳng can thiệp nữa. Nhưng nhớ kỹ: thế gia không yếu ớt như bề ngoài đâu. Họ nghe lời, cũng chỉ là tạm thời; người chưa chạm vào gốc rễ của họ thôi. Một khi cần có người làm vật hy sinh, người phải…”

Gia Ninh Đế đột ngột đứng dậy, giọng gắt: “Mẫu hậu!”

Sắc mặt y có phần bối rối, trong mắt ngập ngừng: “Mẫu hậu, loại chuyện bội nghĩa thất tín, trẫm tuyệt không làm…”

Thái hậu không nói thêm, chỉ mỉm cười nhạt, trong mắt ánh lên nét giễu cợt. Trẻ con rồi cũng tự lớn; bà ta đã già, đi được đến hôm nay cũng chẳng dễ dàng gì.

Chợt thấy lời mình nói nghe quen đến lạ, hình như năm xưa tiên đế cũng từng nói thế.

À… nhưng kết cục ra sao?

Nghĩ vậy, bà ta thở nhẹ. Đường đế vương vốn là như thế, cần gì lo nhiều.


Mấy ngày nữa là xuân, thời tiết ấm dần. Cỏ cây đâm chồi, mấy nhánh khô trong vườn đã nảy lá non, xuân phong dịu dàng khẽ thổi, cả thiên địa như khoác áo mới.

Dẫu còn lạnh, áo đông vẫn phải mặc; lên đường vẫn gian nan.

Tống Thanh Thư khi ấy đang ở phương Bắc. Ban đầu hắn định nhờ Tuyên Uy tướng quân giúp đỡ, nhưng lại sợ liên lụy người khác; hơn nữa, hắn muốn tự tay bắt nàng. Sai lầm trước đã xảy ra, lần này hắn phải tự mình bù đắp.

Một đường phi ngựa, không dừng chân, mà vẫn chẳng tìm được tung tích.

“Xác thực nàng từng đến phía bắc, nhưng sau đó đi đâu thì không rõ. Tựa như đột nhiên biến mất.”

Tống Thanh Thư mặt không đổi sắc, mắt sâu tựa biển, nhìn tấm dư đồ trước mặt. Ngón tay dài khẽ gõ bàn, âm thanh trầm đục như tiếng trống giục hồn.

“Cha mẹ nàng hiện ở đâu?”

“Ở Đan Tích. Phía bắc Cư Xa lạnh giá, nên họ về Đan Tích tránh rét.”

Tống Thanh Thư gật đầu, tay lướt qua bản đồ không ngừng. Phía tây là sa mạc, nàng chắc chắn không mạo hiểm. Phía bắc tạm không thích hợp, nếu biết Tuyên Uy tướng quân đóng ở đó, nàng hẳn tránh xa. Vậy thì nàng ở đâu?

Cư Xa? Nguyệt Thị? Kỳ Tha? Sơ Giao?

Ngón tay hắn khẽ dừng, rồi chậm rãi điểm xuống Thổ Khâu, lại từ từ trượt qua…

Bình Luận (0)
Comment