Diệp Tích Nhân chưa từng thấy qua bản đồ quân sự, chẳng thể phán đoán được nó đúng hay sai, nhưng nàng có thể nhìn ra mọi thứ trên đó đều bình thường, không giống trâm mai hay thanh đoản đao mang dấu vết liên quan đến “A Uyển”.
Dù nhìn dưới ánh nến suốt một đêm, vẫn không tìm được chút manh mối nào. Đến khi trời sáng rõ, cây nến gần cạn, nàng lật đi lật lại cuộn da dê nghiên cứu.
Không lẽ lại như vậy sao? Nếu bản đồ này thật sự không có vấn đề gì, cớ gì “A Uyển” lại dặn bà ngoại cất giữ kỹ càng? Xem phản ứng của người, rõ ràng người và “A Uyển” là người quen cũ, tình cảm sâu đậm.
Tàng trữ bản đồ quân sự là trọng tội, rốt cuộc có bí mật gì phải giấu đến thế? Tạo phản ư? Chỉ dựa vào một bản đồ quân sự thì chưa thể cấu thành tội mưu phản, nhà họ Diệp cũng chẳng có năng lực ấy.
Diệp Tích Nhân ngồi trong căn phòng ấy, đã qua giờ Dần, trời sáng rõ, bên ngoài a hoàn bà tử lục tục dậy sớm, khắp Diệp phủ như bộ máy sống lại, chậm rãi vận hành, nhưng lại chẳng có ai vào nhìn lấy một lần, như thể trong căn phòng này từ trước đến nay chưa từng có vị “tiểu thư” nào của họ.
Nàng càng lúc càng cảm thấy rét buốt tận xương.
Ánh dương ngoài cửa sổ rọi vào cũng chẳng thể sưởi ấm nổi, trên bàn ngọn lửa nến lay động, cuộn da dê là tia hy vọng cuối cùng để phá vòng lặp vẫn lặng lẽ trải trên đó, không tìm ra được chút dấu vết nào.
Diệp Tích Nhân không cam lòng, lại cầm lấy cuộn da dê.
Nếu nàng không tìm được thì nàng sẽ đi tìm phụ thân, Nghiêm Đan Thanh giúp đỡ, nàng không tin trên này hoàn toàn không có manh mối.
Nàng đứng dậy cầm bản đồ, sau một đêm ngồi lì thì tinh lực cạn kiệt, nàng vừa đứng lên trước mắt lại tối sầm choáng váng, phải vịn bàn mới gượng được. Lúc đó, một mùi khét lẹt bất chợt lan tỏa.
Sắc mặt Diệp Tích Nhân biến đổi, vội thu tay lại.
Thì ra lúc nàng chống tay lên bàn, bản đồ đã chạm vào ngọn nến chưa tắt, lập tức bén lửa khiến một góc tấm bản đồ cuộn lại!
Nàng vội vàng phủi dập lửa, thở phào nhẹ nhõm, may thay nàng kịp thời thu tay, bản đồ chỉ cháy một góc nhỏ không hư tổn gì đáng kể.
Diệp Tích Nhân định cuộn da dê lại, nhưng khi ánh mắt lướt qua thì lập tức dừng lại, nàng đưa bản đồ lên gần, tỉ mỉ quan sát, đầu ngón tay mảnh khảnh khẽ miết mép cháy, tro đen rơi xuống lộ ra nếp gấp mơ hồ.
Một lớp ẩn!
Bản đồ này hóa ra có kẹp hai lớp!
Diệp Tích Nhân lại ngồi xuống, mở bản đồ ra, rồi cầm lấy con dao găm sắc bén đặt bên cạnh, từ từ tách mép giấy đã dính liền.
Theo từng động tác, tim nàng như nhảy lên tận cổ, toàn thân căng chặt thần kinh, lòng bàn tay hơi ướt mồ hôi, nhưng ngón tay vẫn cố giữ ổn định, cẩn thận tách ra từng chút một.
“Rẹt!”
Diệp Tích Nhân một hơi xé tách lớp da dê, bên trong lộ ra hoàn toàn không chút che giấu, nhưng ngay giây phút nhìn rõ, da đầu nàng tê dại, lông tơ dựng đứng, bên trong là chữ viết dày đặc!
*
Xe ngựa xuyên đêm rời Nam Đô, một đường phi nước đại.
Chiếc xe ngựa này trông xám xịt bụi bặm, vô cùng kín đáo, số hộ vệ theo sau không nhiều, ai nấy mặt lạnh tanh, mắt nhìn thẳng, chỉ im lặng thi hành nhiệm vụ, hộ tống xe đến nơi nhanh nhất có thể.
Trong xe chỉ có hai người.
Tưởng Du ngồi ở giữa, bên cạnh là Trương Nguyên Mưu bị xích sắt trói lại, toàn thân thương tích, đến cả cử động cũng khó khăn. Giữa hai người là một khoảng im lặng tột độ, chỉ còn tiếng xe ngựa lắc lư, móng ngựa gõ đều.
Một lúc lâu sau, Trương Nguyên Mưu rốt cuộc phá vỡ yên tĩnh.
Tuy dáng vẻ vô cùng thảm hại, ông ta vẫn bật cười nhạt, giọng đầy châm biếm: “Tưởng tể tướng cuối cùng cũng quyết định giết ta rồi sao? Đã muốn giết, cần gì phải đưa ta ra ngoài mới động thủ?”
Tưởng Du ngồi ngay ngắn trong xe ngựa, bên cạnh đặt một thanh đao sắc bén. Trương Nguyên Mưu hiểu quá rõ con người này, đã đưa ông ta ra khỏi lao thì chắc chắn không định đưa trở về nữa. Ông ta không sợ chết, chỉ không sao hiểu nổi mục đích của người này. Rõ ràng trước đó nhất quyết không để ông ta được chết yên, cớ gì bỗng dưng lại thay đổi ý định?
Tưởng Du cuối cùng cũng nhìn sang, vẻ mặt bình thản: “Nếu ngươi không tin, ta sẽ đưa ngươi đến tận nơi xem.” Nhưng sau khi xem rồi… thì sẽ không thể sống được nữa.
“Xem cái gì?” Mày Trương Nguyên Mưu khẽ nhíu lại.
Tưởng Du không đáp, chỉ khép mắt, mặc cho ngựa phi như bay, đưa bọn họ đến điểm đến.
Đó là một thôn trang sau lưng thành Nam Đô. Cách Nam Đô một đoạn, lại được mấy ngọn núi bao quanh. Bên ngoài thiên hạ loạn lạc, nơi này hiếm hoi yên bình. Trời đã sáng rõ, làn khói bếp mỏng manh cuộn lên.
Lũ trẻ trong thôn đã dậy ăn sáng, nhân lúc người lớn bận việc đồng áng, bọn trẻ kéo nhau chơi đùa khắp làng. Chúng vừa ào ạt chạy lên núi, lại ào ạt chạy xuống, reo hò chạy ra bờ sông.
“Không được ra bờ sông!” Có người lớn quát lên.
“Ha ha ha!” Lũ trẻ lập tức cười phá lên, rồi lại phóng ngược vào trong thôn, tiếng cười nói, đùa giỡn lanh lảnh chói tai, vang vọng khắp nơi, dù ở xa cũng nghe rõ mồn một.
Ở vùng quê khói lam lác đác này, sự “ồn ào” ấy lại trở thành một nét bình yên nhộn nhịp hiếm có.
Xe ngựa dừng lặng ngoài làng.
Trương Nguyên Mưu càng nhíu chặt mày, tới lúc này rồi, đối phương còn tâm trí mang ông ta đến chốn này sao?
Tưởng Du vươn tay, vén nhẹ một góc rèm xe, từ trong có thể nhìn ra ngoài, còn người ngoài không thể nhìn thấy vào.
Đúng lúc ấy, bọn trẻ tinh nghịch nhìn thấy xe ngựa liền hào hứng chạy lại. Đứa cầm chong chóng giấy, đứa cầm bánh xe tre, có đứa còn cầm diều trong tay, cả đám ùa lại xem xét. Nhưng chắc còn nhớ lời người lớn dặn, sợ gặp kẻ bắt cóc, nên không dám tiến lại gần, chỉ đứng xa xa hóng nhìn, chen đẩy nhau, tò mò không dứt.
Trương Nguyên Mưu chau mày đến mức như có thể kẹp được con muỗi, định mở miệng thì bỗng nhiên ánh mắt ông ta khựng lại, dừng trên một đứa trẻ giữa đám đông…
Đồng tử ông ta co rút, suýt tưởng mình nhìn lầm.
Ngay giây sau, bất chấp xiềng sắt trên người và cả những vết thương, ông ta bật dậy, ghé sát đầu vào khe hở rèm, mặt gần như áp sát vào đó, mắt nheo lại nhìn kỹ.
Đứa trẻ ấy ăn mặc đơn sơ, không phải là không có áo quần, chỉ là trời đã ấm lên, trẻ con suốt ngày chạy nhảy không tiện mặc dày. Trên người nó là áo vải bông, không mới nhưng sạch sẽ, tay cầm chiếc chong chóng bằng tre, làm khá tinh xảo, so với mấy đứa khác xem ra “uy phong” nhất.
Chạy nhảy ngoài trời lâu ngày khiến da nó sạm nắng, nhưng mặt mày hồng hào, đôi mắt đen láy linh hoạt, đang cùng đám trẻ tò mò nhìn sang, tay bẩn lem luốc, mặt còn vương chút bùn đất, chẳng khác gì một con khỉ con.
Có lẽ bị đồng bạn bên cạnh xô phải, hai đứa đẩy qua đẩy lại, cười đùa inh ỏi.
Trương Nguyên Mưu lại bị chấn động đến nghẹn lời, môi ông ta run run thân thể cũng khẽ chao đảo, rồi đột nhiên ông ta quay phắt lại, trừng mắt nhìn chằm chằm Tưởng Du, giọng khản đặc, rít qua kẽ răng: “Nó… còn sống? Ngươi… thật sự không lừa ta?!”
Đó là Lương Cẩm!
Tưởng Du từng nói Lương Cẩm còn sống, nhưng ông ta chỉ nghĩ là lời dối trá để moi thông tin, chưa từng tin. Thế nhưng trước mắt là Lương Cẩm bằng xương bằng thịt.
Dù cách xa một năm trời, ông ta vẫn nhận ra chỉ sau một cái nhìn.
Tưởng Du siết chặt mép rèm xanh, không cho ông ta xốc màn lên, ánh mắt thu hẹp che giấu mọi cảm xúc bên trong: “Ngươi đã từng bế nó, ta cũng từng bế nó. Ngươi là thần tử, ta cũng vậy. Tiểu hoàng đế Lương Cẩm đã chết, còn đây chỉ là một đứa trẻ thôn quê bình thường mà thôi.”
Trương Nguyên Mưu há miệng, lại không thể thốt ra lời.
Gân xanh trên trán ồn ta giật liên hồi, đôi cánh mũi phập phồng dữ dội vì kinh hoảng, hơi thở gấp gáp, ngón tay run rẩy. Trong khoang xe, chỉ còn tiếng thở nặng nề.
“Ta vốn định đưa nó xuống tận phương Nam, nhưng thiên hạ loạn lạc, đường xá khó đi. Lúc đi ngang chỗ này, nó nói nó thích nơi này vậy nên ở lại. Ta cho người tìm một gia đình tốt, giả làm dân tị nạn không nuôi nổi con, rồi để họ nhận nuôi nó.”
Tưởng Du thở dài, giọng như gió thoảng: “Nhà ấy rất tốt, phu thê thuận hòa, thê tử yêu trẻ con, chỉ tiếc rằng phu quân bị bệnh nên không thể sinh con, bèn coi nó như con đẻ, cho ghi tên vào gia phả. Phụ nhân ấy nuôi nó rất chu đáo, lúc xưa hay ốm vặt nhưng từ ngày về đây chỉ bệnh đúng một lần lúc mới tới, nay đã khỏe mạnh, cao lớn mập mạp ra rồi.”
Bên ngoài, lũ trẻ thấy xe ngựa dừng thì càng thêm tò mò, nhưng vẫn nhớ lời người lớn dặn, không dám lại gần. Tiếng cười đùa vang lên không ngớt, rộn ràng hết mực.
Trương Nguyên Mưu áp sát vào khe rèm, chăm chú nhìn ra ngoài.
Hai tay ông ta bị trói run bắn, nắm chặt góc áo, mắt không rời đứa trẻ kia, mắt đỏ ngầu như chỉ muốn lao ra nhìn cho thật rõ.
Đúng lúc ấy, Tưởng Du hạ rèm xuống.
“Giờ chiến sự chưa lan đến nơi này, dân tị nạn cũng mới tụ lại ngoài Nam Đô, chưa tràn ra xa, nên nơi này còn giữ được chút bình yên. Hiện tại, nó là một đứa trẻ nhà quê bình thường. Nếu thành Nam Đô vỡ, Đại Lương diệt vong, thì bách tính Đại Lương này, chẳng ai thoát khỏi cảnh lầm than.”
Tưởng Du quay sang nhìn ông ta, nghiến chặt quai hàm: “Trương Nguyên Mưu, ta đã để ngươi nhìn thấy nó, thì không thể để ngươi sống trở về. Trước khi chết, ngươi lựa chọn điều gì, để giang sơn Đại Lương này bị giày xéo dân chúng sống chẳng bằng chết, hay khử ngoại tộc, giữ lại sự bình yên ấy?”
Trương Nguyên Mưu chịu đủ cực hình, trước sau vẫn chỉ nói không biết lô quân lương đó ở đâu, chỉ thừa nhận đã giao cho Xích Trản Lan Sách, để hắn lo liệu.
Người khác đều đã từ bỏ việc moi lời từ miệng ông ta, chỉ có Tưởng Du là chưa từng buông tay. Ông không tin rằng một kẻ cất giấu nhiều mưu đồ như Trương Nguyên Mưu lại hoàn toàn không biết Xích Trản Lan Sách đã giấu quân lương ở đâu!
Tên này tuy một mực cứng rắn, nhưng sau vẻ ngoài thô lỗ là sự khôn ngoan.
Giờ phút này muốn khiến ông ta mở miệng, đây là cách cuối cùng.
Tưởng Du nghiêng người về phía trước, từng chữ nặng như đá rơi: “Nói ta nghe, số quân lương các ngươi cướp đi rốt cuộc bị Xích Trản Lan Sách giấu ở đâu? Vì sao chúng ta lục khắp Nam Đô mà không tìm thấy?”
Trương Nguyên Mưu im lìm.
Được một lúc lâu, ông ta lại bất ngờ hỏi: “Nó… bây giờ tên gì?”
Tưởng Du khựng lại, rồi nhẹ giọng đáp: “Bình An. Nhà đó đặt cho nó cái tên ‘Bình An’.”
Bên ngoài, đã có người lớn chú ý đến xe ngựa, có người vội vã chạy tới, ánh mắt cảnh giác. Lũ trẻ bị quát mắng, ào ào tản đi.
“Bình An!” Một nữ nhân chạy đến, gương mặt đầy lo lắng, “Không phải đã nói là không được chạy ra ngoài làng rồi sao? Ngoài kia loạn lắm, gặp phải kẻ bắt cóc, con sẽ chẳng còn được ăn bánh đường a nương làm nữa đâu!”
“Con có tới gần đâu, chỉ nhìn thôi mà.” Giọng trẻ con xa dần, “Đó là xe quan trên, không phải người xấu.”
“Giỏi lắm ấy…”
Tiếng hai người xa dần trong gió.
Trương Nguyên Mưu lao đến, giật phăng rèm xe lần nữa, nhưng chỉ còn trông thấy bóng lưng nữ nhân cõng đứa trẻ rời đi. Đứa bé nằm trên lưng a nương, tay vẫn giơ chiếc chong chóng tinh xảo, nữ nhân bỗng nhanh chân chạy một đoạn, cánh quạt tre liền xoay tít. Tiếng cười trong trẻo của Bình An vang vọng trong không khí.
Nắng chiếu xuyên qua cánh quạt, loang xuống mặt đất.
Đến khi không còn trông thấy nữa, Trương Nguyên Mưu mới từ từ thu ánh nhìn tham lam về, quay đầu lại, mặt đã đẫm lệ.
“Ta… quả thực về chỗ quân lương…”
*
Sông hộ thành.
Nghiêm Đan Thanh nhìn về phía dòng sông lớn, tay siết chặt thành nắm đấm, đôi mắt đen sâu thăm thẳm, con sông bảo vệ thành quen thuộc ấy lúc này trông lặng yên vô sự, bến tàu tấp nập thuyền bè lên xuống.
Thiên hạ binh đao không dứt, triều đình dời đô xuống phương Nam, vô số người Đại Lương đổ dồn về Nam Đô.
Xích Trản Lan Sách ở bên cạnh siết chặt áo lông hồ trắng, nở nụ cười: “Không ngờ chứ? Lương thực của các ngươi vẫn luôn ở trên sông này, chưa từng rời khỏi nơi này.”
Lương thực nằm trong địa phận Nam Đô, nhưng lại không ở Nam Đô.
Từng chiếc thuyền lớn chở lương thực đang lênh đênh trên sông, chưa từng cập bất kỳ bến tàu nào, bảo sao lục soát thế nào cũng không tìm ra dấu vết.
Lương thực ở trên nước, chưa từng cập bờ.
Nghiêm Đan Thanh quay đầu nhìn hắn, ánh mắt sắc bén như đao, lại hỏi: “Vậy các ngươi làm cách nào cướp được quân lương?”
Thuyền chở lương và thuyền dân hoàn toàn khác nhau. Giờ đây, những con thuyền chở đầy lương thực lững lờ trên sông là thuyền dân. Xích Trản Lan Sách và Trương Nguyên Mưu đã làm cách nào, ngay dưới mí mắt của Tưởng Du và đoàn vận lương, đổi được hàng?
Phải biết rằng, nếu lương thực đã ở trên sông, nghĩa là số quân lương kia đã bị tráo trước khi rời khỏi con sông ấy.
Làm sao bọn họ làm được chứ?!
Xích Trản Lan Sách chỉnh lại y phục, khóe môi nở nụ cười càng thêm ôn hòa, hắn nghiêng đầu, vẻ mặt vô tội: “Đó là bí mật. Sau này Nghiêm tiểu tướng quân có thể từ từ đoán.”
“Vậy, tiểu tướng quân nghĩ xem nên đổi thế nào? Đừng có mơ cướp thẳng, đã đưa ngươi đến đây rồi, chỉ cần giao dịch không suôn sẻ, số lương này sẽ lập tức bị dìm xuống sông.”
Sông hộ thành mênh mông, người rơi xuống còn không ai cứu nổi, lương thực bị đổ xuống sẽ nhanh chóng trôi đi, không bao giờ vớt lại được.
Đó là cơ hội sống của vô số người.
Nghiêm Đan Thanh khẽ v**t v* chuôi đao bên hông.
Trường thương hợp cho chiến trường, trong Nam Đô thường ngày hắn dùng đao, cảm nhận được sự lạnh lẽo của chuôi đao, hắn lạnh giọng đáp: “Còn xem điện hạ định đổi như thế nào?”
Nụ cười trên mặt Xích Trản Lan Sách vụt tắt, giọng trở nên lạnh lùng: “Cho ta một chiếc thuyền lớn, chúng ta giao dịch ngay trên sông. Ngươi lấy thuyền lương, ta cho người của mình lên thuyền lớn, để bọn ta rời khỏi Nam Đô.”
Nghiêm Đan Thanh lặng lẽ nhìn hắn.
Lại một lần nữa xác thực vẫn còn đồng bọn của hắn, chỉ nói đổi thuyền chứng tỏ đã có người chờ tiếp ứng, chỉ cần lên được thuyền mà rời khỏi Nam Đô, bọn họ sẽ có cách trốn thoát.
“Được.” Nghiêm Đan Thanh đồng ý.
Sau đó, hắn lập tức hạ lệnh chuẩn bị thuyền. Còn Xích Trản Lan Sách lúc này sau lưng chỉ còn A Hữu và Mạc Lặc, liền thả tín hiệu liên lạc với người trên sông.
Cuộc giao dịch này trông rất công bằng: một bên giao lương, một bên thả người. Trên sông hộ thủy, hai bên hoàn tất giao dịch, kẻ ngược dòng, người xuôi dòng, chia hai đường mà đi, lại ra chiến trường quyết đấu.
Mọi sự đã sắp xếp xong xuôi, Nghiêm Đan Thanh dẫn Xích Trản Lan Sách bước lên thuyền lớn.
*
Diệp phủ.
Bên ngoài náo nhiệt, trong nhà lại yên tĩnh lạ thường. Ánh dương xuyên qua song cửa, nhưng chẳng chiếu được đến người Diệp Tích Nhân. Nàng chăm chú nhìn cuốn bút ký giấu trong da dê, toàn thân căng cứng, mỗi chữ lọt vào mắt, thân thể lại không ngừng run lên.
[Ta tên Nghiêm Uyển, sinh năm Cảnh Hựu thứ 16, là trưởng nữ của nhà Trung Dũng Hầu Nghiêm gia, có huynh trưởng Nghiêm Sơn Hà, đệ đệ Nghiêm Đan Thanh. Năm cập kê, Bắc Yến dấy động, chiến sự biên quan sắp nổi, phụ mẫu đưa ta về kinh sớm, gửi gắm bên gối phu nhân Triệu Lan Quân, bằng hữu của tổ mẫu.]
[Năm Cảnh Hựu thứ 35, ta gả cho Dực Vương Lương Việt, cùng năm phò tá Lương Việt đăng cơ, được sắc phong Hoàng hậu.]
[Ta vẫn luôn trải qua vòng lặp cái chết.]
[Hiện tại, là lần cuối cùng trong vòng lặp ấy.]