Hình ảnh minh hoạ về Phàn lâu (nguồn: Baidu)
**
“Tôi biết tâm nguyện của mình là gì rồi!”
A Bảo từ giữa cánh tay ngẩng đầu lên, đôi mắt đen nhánh sáng ngời nhìn người nọ đang đọc sách bên cửa sổ phía nam. Thấy chàng không phản ứng, chỉ yên lặng lật trang sách, nàng sờ sờ cái mũi, đứng dậy đi đến trước người chàng, hơi cúi người xuống.
“Nè, anh không muốn biết là gì à?”
“Không muốn.”
Lương Nguyên Kính đổi hướng tiếp tục đọc sách.
“Tôi muốn ăn hạt dẻ rang đường nhà Lý Hoà.” A Bảo nói.
Vẫn thấy Lương Nguyên Kính không phản ứng gì, nàng bay tới ngồi trên cửa sổ, hai chân nhàm chán đung đưa qua lại.
“Không phải anh muốn thực hiện tâm nguyện của tôi để tôi đầu thai chuyển thế hả, mua hạt dẻ ra đường cho tôi đi, nói không chừng ăn xong sẽ đầu thai liền đó.”
Rốt cuộc Lương Nguyên Kính mới ngẩng đầu khỏi trang sách, bất đắc dĩ nói: “Em ăn rồi.”
“Sao có thể?” A Bảo kinh ngạc nói, “Hồi nào cơ?”
“Lập thu tháng trước, em nói em muốn ăn đầu gà nhà Lý Hòa, Thất Tịch, em muốn đến Chu Tước Môn xem kịch, tháng trước đó nữa sinh nhật Thôi Phủ Quân, em nói muốn đi xem trò chơi dân gian, hôm trước tiết Thu Xã em cũng kêu tôi dẫn em đi ăn cơm xã.” [1]
[1] Truyền thống của vài dân tộc ở TQ từ thời xưa, nôm na là món cơm ăn trộn từ nhiều nguyên liệu lại với nhau, được ăn vào ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập Xuân/Thu với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, gia đình ấm no, hạnh phúc. (theo Baidu)
“……”
A Bảo nói thầm trong lòng, cho dù có vài món là nàng thấy thèm mới đặt điều lung tung, nhưng anh cũng không cần nhớ rõ từng ngày từng món tới vậy đâu.
Mắt thấy Lương Nguyên Kính còn muốn liệt kê thêm mấy món nữa, nàng vội vàng chen ngang: “Được rồi được rồi, tôi biết rồi, anh đừng nói nữa. Thật ra tôi không ăn cũng được, nhưng tôi muốn đi chơi. Hôm nay trời đẹp như vậy, anh có thể đừng suốt ngày buồn chán ngồi trong phòng đọc sách hay không?”
“Không thể.” Lương Nguyên Kính trả lời lại nàng bằng hai chữ này.
Cái đồ bướng bỉnh!
A Bảo hận không thể đạp cho chàng hai cước xả giận, chưa từng thấy người nào không thích ra cửa như chàng, lại còn trói mình ở quanh chàng nữa chứ, đi cũng không được, chỉ có thể ngắm gương mặt này phát ngốc. Cho dù chàng lớn lên có tuấn tú thế nào đi chăng nữa, cũng sẽ ngắm đến phát chán thôi!
A Bảo bất đắc dĩ dời ánh mắt ra ngoài cửa sổ.
Từ ngày Đoan Ngọ cho tới nay đã trôi qua ba tháng, mùa thu tới rồi, thời tiết cuối thu cũng mát mẻ, trời xanh mây tạnh, cây táo đình viện cũng đã kết trái từ lâu. Trước đó vài ngày còn bị A Bảo ép buộc Lương Nguyên Kính dùng gậy trúc thọc rớt, chừa lại cho nàng ăn.
Nhớ tới ngày ấy chàng tay chân vụng về thọc táo, kết quả bị táo rơi đầy trời đập trúng đầu, làm A Bảo phải bật cười.
Lương Nguyên Kính cái người này, ngoại trừ chuyện vẽ tranh thành thạo như chuyên gia ra, còn lại đều ngốc như nhau.
“Cười gì vậy?” Lương Nguyên Kính hỏi.
“Không nói cho anh,” A Bảo ‘hứ’ xong nằm trên án thư, lăn từ đầu bên đây sang đến đầu bên kia, “Ra ngoài đi, nhàm chán quá, buồn bực quá, cả người mốc meo cả rồi…”
Lương Nguyên Kính chỉ có thể cầm sách lên, không thể tránh được nàng đang lăn lộn.
Lăn qua lăn lại mấy lần, cửa thư phòng bị gõ vang lên, Dư lão cầm một xấp thư tiến vào, nói: “Công tử, đây là thư của mấy ngày gần đây.”
“Đa tạ.”
Lương Nguyên Kính nhận lấy, mở từng lá thư ra xem, bỗng phát hiện Dư lão còn chưa đi, vừa nhấc đầu đã thấy ánh mắt ‘muốn nói rồi thôi’ của ông, sửng sốt hỏi: “Còn việc gì sao?”
“Không… Không có gì.”
Dư lão đi ra ngoài, trước khi bước qua cửa còn lo lắng nhìn chàng một cái.
Lương Nguyên Kính: “?”
“Chắc chắn ông ấy cho rằng anh lại lầm bà lầm bầm một mình nữa rồi,” A Bảo nói, “Cho nên tôi muốn anh đi ra ngoài đi, bằng không người ta sẽ nghĩ anh là đồ điên đó.”
Lương Nguyên Kính không trả lời, cúi đầu đọc thư, bỗng nhiên ánh mắt sáng ngời, kích động đập bàn, hiếm khi chàng bộc lộ cảm xúc ra ngoài như bây giờ.
“Gì vậy?” A Bảo ngồi dậy hỏi, “Thư của ai?”
Lương Nguyên Kính không đáp, A Bảo muốn lại gần đọc thử thì đã bị chàng giấu dẹm đi, quay đầu lại thấy chàng lấy dụng cụ vẽ tranh ra, trong lòng nhất thời vui vẻ.
“Muốn ra ngoài hả?”
Lương Nguyên Kính cõng rương gỗ nhỏ, gật gật đầu.
“Thật hả? Muốn đi đâu? Đi đâu?”
Trong lòng A Bảo như bắn pháo hoa, hưng phấn chạy vòng quanh hai vòng khắp căn phòng, cuối cùng! Cuối cùng cũng ra ngoài!
Lương Nguyên Kính cười nhìn nàng, hai tròng mắt sáng tỏ như sao: “Đi giúp em thực hiện tâm nguyện.”
**
“Hướng này không phải đến nhà Lý Hoà, anh muốn đi đâu vậy?”
A Bảo nghi hoặc nhìn hẻm nhỏ trước mặt, nàng đã chết hơn ba năm, đối với bố cục thành Đông Kinh mà nói, đã có chút xa lạ, nhưng trái cây nhà Lý Hoà ở ngoài vách tường phía tây, hướng này không phải đi về phía tây, ngược lại giống như…
“Phàn lâu,” Lương Nguyên Kính nói, “Chúng ta đến phàn lâu.”
Phàn lâu, nhắc tới ‘Phàn lâu’, tên gốc là ‘Bạch Phàn lâu’, sau này đều được gọi tắt thành ‘Phàn lâu’, vốn là nơi đại thương nhân mua phèn, bị người nghe nhầm đồn bậy thành vì ông chủ họ Phàn, cho nên mới có tên là ‘Phàn lâu’.
Trong số 72 cửa hàng nổi tiếng ở Đông Kinh, Phàn lâu đứng đầu, ‘tửu lâu đệ nhất kinh thành, ngày nào cũng có ngàn người đến mua’, người đương thời còn có bài thơ ghi chép lại việc này: “Ca vũ Lương Viên đủ phong lưu, rượu ngon ta uống giải đoạn sầu. Nhớ lại chuyện vui thời niên thiếu, đêm dài phàn lâu vẫn sáng đèn.”
Nó nằm ở phường Cảnh Minh ngoài cửa Đông Hoa cung thành, được xây dựng 5 tầng lầu: đông, tây, nam, bắc, trung. Mỗi lầu cao ba tầng, được nối với nhau bằng cầu bay và lan can, thông nhau cả sáng lẫn tối. Khi về đêm, trong lầu đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, chỉ riêng tiền đèn mỗi năm thôi đã tiêu tốn rất nhiều.
Đến đêm Nguyên Tiêu mười lăm tháng giêng, phàn lâu sẽ đặt một chiếc đèn sen trên mỗi mái ngói, nhìn từ xa trông như cung điện thần tiên. Từ trước đến nay là nơi văn nhân đến yến ẩm, nội hoạn trong cung và công tử vương tôn, con cháu nhà giàu cũng thích tới đây xem đèn.
Năm xưa A Bảo thường tới đây cùng Triệu Tòng, chỉ vì nơi đây không chỉ tiện cho việc xem đèn, trái cây ẩm thực cũng không tệ, nếu bước lên lầu tây nhìn phương xa còn thấy được bao quát cả cấm thành.
Bởi vì là khu vực tiếp giáp đại nội, chi phí trong lâu tất nhiên cũng không rẻ. Hôm nay Lương Nguyên Kính lại dẫn nàng đến đây, có phải đã chịu chút kí.ch thí.ch gì hay không?
A Bảo đi đường nửa tin nửa ngờ, theo chàng tiến vào lâu.
Phàm là tửu lâu kinh thành, lầu một thường dành cho khách ghé tạm, lầu hai mới là nhã các. Tiểu nhị quen biết Lương Nguyên Kính, vừa thấy chàng đã dẫn người lên lầu hai.
Hành lang dài hai bên Nam Bắc gần giếng trời, có không ít kỹ nữ trang điểm đậm ngồi đó, nhìn thấy Lương Nguyên Kính, họ đồng loạt reo lên rồi ùa tới, luôn miệng gọi “Lương công tử”, từng đôi tay trắng mịn móng tay sơn hồng vươn ra chạm sờ lên người chàng.
A Bảo trước đây đến phàn lâu đều có nội thị dọn đường, nên đây là lần đầu tiên gặp phải tình huống náo nhiệt này, thoáng chốc khiếp sợ, hoảng hốt la: “Làm gì? Làm gì vậy?”
Nhóm kỹ nữ dĩ nhiên không thấy nàng, từng tay xuyên qua người nàng, hướng tới tiếp đón Lương Nguyên Kính.
“Lương công tử, lâu rồi không gặp chàng nha.”
“Lương công tử, chừng nào mới vào phòng vẽ tranh cho nô gia đây?”
“Đi thôi, Lương công tử, tới phòng em trước nha.”
“Tới phòng em cơ.”
“Tránh ra hết, tôi tới trước mà.”
Chúng kỹ nữ không hợp cạ nhau. Vì tranh giành Lương Nguyên Kính mà vung tay đánh nhau, còn có người thừa nước đục thả câu, thừa dịp hỗn loạn âm thầm trộm cắp, chiếm không ít tiện nghi của Lương Nguyên Kính.
A Bảo nghĩ mà buồn cười, tôi còn chưa sờ qua, vậy mà đã có người giành sờ trước. Lúc này mới dẫn đầu, vén tay áo nhảy chắn trước người Lương Nguyên Kính, hung thần ác sát quát: “Đừng chạm vào anh ấy! Cô! Tay của cô nữa! Tôi thấy hết! Chớ có sờ tới! Mau gọi người đi! Có người vô lễ! Có người vô lễ với phụ nam nhà lành kìa!”
“……”
Lương Nguyên Kính cẩn thận nghiêng người, dồn hết sức tránh đi những bàn tay sờ tới kia, trong hỗn loạn còn nghe thấy tiếng tiểu nhị sụp đổ gào khóc: “Đừng có sờ nữa! Sờ lầm người rồi! Ui da! Ai véo mông ông đó!”
Hai người một quỷ thập tử nhất sinh, vất vả lắm mới đi qua khỏi hành lang dài, chọn trốn vào một căn phòng nhỏ. Cửa vừa đóng lại đã dựa vào đó thở phào một hơi.
A Bảo lửa giận đầy bụng, muốn kéo lỗ tai Lương Nguyên Kính lên hỏi, có phải tất cả kỹ nữ của thành Đông Kinh này đều quen biết chàng không, Lương đại nhân đúng là tiếng tăm bay xa mà!
Nhưng khi ánh mắt quét qua chỗ ngồi sát cửa sổ, không khỏi chau mày, thầm nghĩ: “Tên tiểu nhị này sao thế? Phòng này có người rồi còn dẫn bọn ta vào làm gì?”
“Đúng là cậu rồi.”
Người nọ đang đứng bên cửa sổ ngắm phố xá chậm rãi xoay người, tóc mai nhiễm sương bụi, gương mặt chữ điền hiền hậu chất phác mang theo nụ cười tươi ấm áp quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn.
“Anh còn tưởng rằng mình nhận lầm thư, Lương tiên sinh, đã lâu không gặp.”
A Bảo đứng ngây ngốc tại chỗ, hai chân chưa đeo chì, không thể di chuyển được bước nào.
Sao lại thế này?
Là mơ sao?
Nhưng mà quỷ hồn sẽ không nằm mơ.
Nàng thất thố nhìn Lương Nguyên Kính, chàng gật đầu với nàng.
A Bảo bước đi nặng nề, mỗi bước chân như treo ngàn cân, nàng lê từng bước một đi về phía người nọ bên cửa sổ, không dám tin nâng tay lên, sờ sờ lên gương mặt trong trí nhớ vào giữa hư không.
Nàng y như chim non nhào vào lòng ngực anh, nhắm mắt lẩm bẩm: “A ca……”
**
“Sao lại thế này? A ca của tôi sao ở đây? Anh ấy nói ‘nhận lầm thư’ à? Thư gì thế? Thư anh gửi anh ấy á? Anh quen a ca của tôi hả?”
A Bảo quả thực thấy cực kỳ hưng phấn, từng câu hỏi lần lượt nhảy ra, lại bay hai ba vòng quanh nội các.
Lương Nguyên Kính bị nàng làm cho choáng váng đầu óc, vội ngăn lại nói: “Chờ chút, em bình tĩnh lại đi.”
Lý Hùng lạ lẫm nói: “Bình tĩnh cái gì? Anh rất bình tĩnh đây.”
“Tôi không bình tĩnh nổi! Tôi vui quá đi mất! Há!”
A Bảo bay lên xà nhà chơi đánh đu, chốc nữa lại ghé vào đầu vai của Lý Hùng, giống như tiểu hồ ly thân mật cọ xát, “A ca, em gặp được anh rồi, tốt quá, em rất nhớ anh.”
Lương Nguyên Kính mỉm cười: “Trong tộc của tôi có vị đường huynh, từng giữ chức Tư hộ Tham quân dưới quyền Lý Tri châu. Lúc Lý Tri châu được điều đến Sở Châu nhậm chức, cũng từng dẫn anh ấy đi cùng. Tôi viết thư hỏi thăm tung tích huynh trưởng của em, biết được năm xưa Lý Tri châu bị biếm xuống nên sinh lòng oán hận, đã qua đời vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ hai, sau đó huynh trưởng em di dời cả nhà đến Tuyền Châu, làm ăn buôn bán nhỏ với các hải thương, hiện đã định cư và lập nghiệp ở đó. Tôi nghe được tin này, đã nhờ người quen truyền tin giúp, mời anh ấy tới Đông Kinh một chuyến.”
“???” Lý Hùng hoảng sợ quay đầu lại, “Cậu nói chuyện với ai đó?”
“Anh ta đang nói chuyện với em,” A Bảo nói, lại tò mò hỏi Lương Nguyên Kính, “Anh và a ca, là người quen cũ à?”
Lương Nguyên Kính “Ừm” một tiếng, rũ mắt xuống đáp: “Năm xưa có từng may mắn gắn bó.”
A Bảo thầm nghĩ quái thật, chàng quen biết a ca, sao mình lại không biết? Chẳng lẽ gặp nhau vào mấy năm nàng rời khỏi Dương Châu?
Lương Nguyên Kính ngước mắt hỏi: “Muốn gặp mặt anh ấy không?”
“Tôi… Tôi không biết.”
A Bảo có chút do dự, xoay người nhìn Lý Hùng.
Mặt anh đầy ý ‘muốn nói lại thôi’, chắc đang cho rằng Lương Nguyên Kính điên rồi, nói câu nào nghe cũng không hiểu.
Khi còn nhỏ a ca hay tín phụng quỷ thần, thường kể cho nàng nghe chuyện xưa về yêu ma quỷ quái, giờ thì nàng đã chết, một vong hồn nếu thình lình xuất hiện trước mặt anh, khiến anh sợ hãi thì làm sao đây?
Hơn nữa, nếu một ngày nào đó mình phải đi đầu thai chuyển thế, cần gì phải hoàn hồn biến thành người, cho anh một niềm hy vọng không nên có.
A Bảo nghĩ ngợi hồi lâu, thế nhưng càng nghĩ càng thấy không nên xuất hiện trước mặt a ca, nàng đắn đo không quyết định được, đành bất lực nhìn về phía Lương Nguyên Kính.
“Làm sao bây giờ? Tôi nên gặp hay không gặp?”
“Gặp đi,” Lương Nguyên Kính nói, “Chẳng phải đây là tâm nguyện của em sao.”
Chàng lấy giấy và bút mực từ rương gỗ ra, trải lên bàn gỗ hoa lê, chuẩn bị vẽ tranh.
Lý Hùng không hiểu gì sất: “Lương tiên sinh, cậu đang…”
“Xin chờ một lát.”
Lương Nguyên Kính nói xong, sau đó trải giấy ra đâu vào đấy, nghiền mực, chấm bút, cổ tay run nhẹ, một nét mực xuất hiện trên giấy trắng Tuyên Thành.
Lý Hùng đứng bên cạnh không nói lời nào, trong lòng lại nói thầm, không biết Lương Nguyên Kính này đang giả thần giả quỷ cái gì nữa, bao năm không gặp, nhìn thế nào cũng giống như thần trí có vấn đề.
Nhưng mà càng nhìn, đôi mắt anh trừng lớn, “Từ từ đã, cậu vẽ……”
A Bảo thò lại gần nhìn, cũng ‘ô’ một tiếng: “Sao anh vẽ thành hình tôi?”
Phải biết rằng, ngày thường A Bảo lên phố, vì tránh bị người khác nhận ra, chàng sẽ chỉ vẽ lại hình người có bốn năm phần tương tự nàng hồi xưa, có khi vẫn giống với một người hoàn toàn xa lạ.
Tỷ như đêm Thất Tịch lần trước, chàng vẽ nàng thành một thiếu niên lang tuấn tú. Ngày hội Ngưu Lang Chức Nữ, trên đường nhiều nam thanh nữ tú, duy chỉ bọn họ hai ‘người nam’ dạo phố cùng nhau, dẫn tới vô số cái ghé mắt từ người đi đường.
“Chắc là vì muốn mình gặp a ca nên mới cố ý vẽ dáng hình trước kia của mình.” A Bảo thầm nghĩ.
Cảm giác nhìn mình trong tranh không giống như lúc nhìn vào gương, huống hồ A Bảo đã lâu rồi chưa soi gương, thì ra dưới ngòi bút của Lương Nguyên Kính, mình trông như này, nàng yên lặng nghĩ.
Người trong tranh vô cùng xinh đẹp, đôi mày cong như trăng non, tròng mắt đen như mực, vừa trong trẻo lại có thần, đáng chú ý nhất chính là đôi môi anh đào kia, môi trên mỏng, môi dưới hơi dày, giữa môi còn có cục châu, hơi chu chu, như vui như giận, lộ ra ba phần xinh đẹp, bảy phần ngây thơ.
Nàng mặc một bộ áo ngắn màu trắng như trăng, dưới mặc áo váy tím nhạt thêu hình chữ vạn, cánh tay choàng dải lụa, trong tay cầm quạt lụa, mặt quạt thêu hình thỏ ngọc dưới trăng.
Lương Nguyên Kính vẽ đẹp như vậy, người trong họa sinh động như thật, tựa như muốn hồi sinh sống lại.
Hai mắt Lý Hùng đỏ ngầu, bất giác cúi thấp đầu nhìn kỹ hơn, cách bức hoạ càng gần, trong nháy mắt thấy có chút ánh sáng chợt lóe, trong tay Lương Nguyên Kính cầm con dao nhỏ, kéo tay áo lên, muốn tự cắt lên cánh tay trái của mình.
“! ! ! ! !”
“Lương công tử! Cậu làm gì vậy?!”
Lý Hùng hoảng sợ nhìn chàng, tính giật lấy con dao kia, lại sợ hai bên tranh chấp gây tổn hại cho nhau, chỉ có thể đứng yên khuyên can: “Có gì cậu từ từ nói, đừng xúc động! Bỏ dao xuống!”
“Tôi không sao.”
Lương Nguyên Kính đang bận trộn, dành chút thì giờ đáp anh một câu.
A Bảo từ bên cạnh nhìn tới, không hiểu vì sao có hơi không đành lòng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Nhỏ ít máu thôi.”
Lương Nguyên Kính rũ mắt: “Ừm.”
Lưỡi dao sắc bén đặt lên làn da, trong khoảng khắc cắt ra một lằn nhỏ, máu đỏ tươi theo cánh tay chàng uốn lượn chảy xuống, nhiễu vào tranh vẽ, như ‘các con sông đổ về một biển’, hình thành một cái xoáy nước diệu kỳ. Sau đó bị hấp thụ sạch sẽ, mỹ nhân trong tranh cũng biến mất theo, chỉ còn tờ giấy Tuyên Thành trắng như tuyết.
Lý Hùng: ?????
Anh dùng tay áo chùi chùi mắt, xong tập trung nhìn lại.
Không đúng, vẫn trống trơn!
Người đâu? Người lớn trên giấy vẽ đâu?
Sao lại thế này? Chẳng lẽ không phải Lương Nguyên Kính điên mà là anh? Hay tối qua ngủ không ngon nên xuất hiện ảo giác?
Lý Hùng mặt mày ‘nghi ngờ nhân sinh’, chợt nghe phía sau truyền đến tiếng gọi nhẹ: “A ca.”