Giữa xuân, ngày mười bốn tháng hai.
Lương Nguyên Kính đang đứng trước cửa Thuỳ Củng Điện, chàng ngửa đầu nhìn bầu trời bị tường cao màu đỏ vây quanh, cuối cùng hôm nay thành Đông Kinh mới ngừng mưa, chỉ là sắc trời vẫn u ám như cũ, đến cả con thú nằm trên ngói lưu ly màu vàng [1] cũng thấy u buồn ỉu xìu như vậy.
[1] Hình ảnh minh hoạ từ Baidu
“Lương tiên sinh, có chuyện gì thế?”
Phùng Ích Toàn vung cây phất trần, kinh ngạc xoay người nhìn chàng.
Lương Nguyên Kính lắc đầu, tiếp tục đi theo ông ta về phía trước, thấp giọng nói: “Hình như sắp có tuyết rơi.”
“Đúng vậy.”
Phùng Ích Toàn cũng ngước mắt nhìn trời, thở dài: “Tuyết nay cũng nên rơi rồi, năm ngoái còn không có trận tuyết nào, nếu lần này cũng vậy, chỉ sợ năm nay lại rơi vào mùa hạn hán. Quan gia vì chuyện này mà âu sầu, đến đêm chẳng ngủ được, còn phải nhờ Trương thiên sư làm nghi thức cầu tuyết nữa là.”
Người nọ ở phía sau lại như người câm, tựa như câu trước của chàng chỉ đang cảm thán một mình chứ không phải có ý bắt chuyện cùng ông ta vậy.
Phùng Ích Toàn thầm nghĩ, Lương đại nhân cũng thật là không biết đối nhân xử thế, khó trách đã oằn mình nhiều năm mà vẫn chỉ là một cái Hàn Lâm Đãi Chiếu nhỏ bé.
Bất quá, hiện giờ người ta đang được quan gia nghênh đón. Tuy Phùng Ích Toàn hầu hạ ngự tiền nhiều năm nhưng ông ta cũng không dám mạo phạm vị Lương hoạ sư này, cố nói lời nào dễ nghe.
“Nhưng quan gia chờ tiên sinh đã lâu, cứ nhắc tới tiên sinh ngài mãi đấy, tiếc là dịp cuối năm nhiều việc phải làm, còn có chuyện đàm phán hoà bình cùng Tây Hạ nên mới chưa có cơ hội tuyên tiên sinh vào yết kiến. Hôm nay diện thánh, ngày tiên sinh được thăng chức tới nhanh lắm rồi ạ, thần xin tại đây chúc mừng tiên sinh trước.”
Dứt lời, liền nở nụ cười chắp tay xá Lương Nguyên Kính một cái.
Ông ta vào Nội Thị Tỉnh đã lâu, đến cả tể chấp trọng thần còn chưa hành lễ lớn tới vầy.
Theo lý thuyết, cho dù là kẻ không biết thức thời như nào cũng nên khiêm nhường hoàn lễ lại. Nhưng Lương Nguyên Kính vậy mà coi như không thấy ông ta, công khai nhận hẳn cái lễ này.
Khoé miệng xu nịnh của Phùng Ích Toàn cứng lại ngay tức khắc. Dựa vào kinh nghiệm lăn lộn trườn bò trong hậu cung nhiều năm mới không thể hiện ra mặt, thâm tâm điên cuồng mắng nhiếc, mặt cười nhưng lòng thì không, cố làm cho xong phận sự mời Lương Nguyên Kính vào Thuỳ Củng Điện.
Thùy Củng Điện.
Triệu Tòng đang ngồi sau ngự án phê duyệt tấu chương, thấy Lương Nguyên Kính tiến vào đã tự mình đứng dậy chào đón, còn nói chàng miễn hành lễ, phân phó Phùng Ích Toàn dâng trà xong quay sang ân cần thăm hỏi Lương Nguyên Kính: “Lâu rồi chưa gặp Lương khanh, hình như đã ốm đi rất nhiều, do mấy ngày gần đây phát bệnh nữa à? Có cần trẫm tuyên ngự y…”
“Thần không sao.” Lương Nguyên Kính nói.
Triệu Tòng đờ ra, có chút xấu hổ, phân phó cung nhân dọn chỗ cho chàng.
Trà dâng lên xong, quân thần hai người phẩm trà chốc lát, cách khói trà mờ mịt, Triệu Tòng vuốt nhẹ chung trà trong tay, cuối cùng nói ra ý đồ triệu chàng tới đây.
“Đoan Ngọ năm ngoái, tại Kim Minh Trì trẫm từng giao phó Lương khanh vẽ một bức tranh hình Uyển Nương, sau đó bận rộn chính sự, trẫm chưa rảnh đề cập đến, không biết khanh đã vẽ tới đâu rồi?”
Lương Nguyên Kính lấy hộp gấm khắc hoa bên cạnh qua, hai tay nâng lên cho hắn: “Bức tranh đây, cung thỉnh quan gia xem thử.”
“Hoá ra đã xong rồi à?”
Thần sắc Triệu Tòng hoảng hốt, nhận lấy hộp gấm kia, quan sát kỹ càng, đôi tay còn đang run rẩy.
Hắn đặt hộp gấm lên án, hít sâu mấy lần tựa như đang chuẩn bị tâm lý, lúc này mới run tay mở nắp hộp ra.
Tranh cuộn được buộc bằng dải lụa, hắn chầm chậm cởi vỏ, bức hoạ cuộn tròn mở ra. Bản lụa đầy màu sắc, bất đồng với tranh cung đình tráng lệ kiều diễm, màu sắc bức hoạ này trang nhã, cũng không giống với tưởng tượng của hắn, trong tranh không chỉ có một chủ thể.
Trên tranh là con phố dài rực rỡ, hai bên cửa hàng san sát, biển hiệu quán rượu bay phấp phới, người qua lại tấp nập, có phụ nhân bồng con trẻ lên phố, có người bán hàng rong khiêng đòn gánh bánh hấp, những người bán rong đi khắp ngõ hẻm, thợ bạc gõ búa đẽo trang sức, còn có đạo sĩ xem bói cho người qua đường, tiên sinh giảng thư trong quán trà được vây quanh bởi khách uống trà si mê nghe.
Giữa phố, có một mỹ nhân ngồi ôm cây đàn tỳ bà, nàng mặc bộ váy đỏ rực, giữa cổ tay có ba chiếc vòng bạc.
“Đây… Đây là gì hả?”
Triệu Tòng bất thình lình ngẩng đầu. Chỉ trong cái chớp mắt, sự phẫn nộ, thất vọng, oán giận bị phật lòng sau quãng thời gian chờ đợi đã lâu, đủ loại cảm xúc ngổn ngang đồng loạt nảy lên trong lòng hắn, y như có dòng nước chảy xiết dẫn đến xung đột.
Triệu Tòng giơ bức hoạ cuộn tròn lên, giận tím mặt nói: “Lương Hoằng! Ngươi nói cho trẫm, ngươi vẽ cái gì đây hả? Trẫm muốn ngươi vẽ Uyển Nương, kết quả cho ngươi lừa gạt trẫm như này à?!”
Cuộn tranh trôi theo cơn tức giận ngập trời của đế vương, ném tới chỗ Lương Nguyên Kính, tình cờ quét trúng khoé mắt chàng. Sau đó rơi trên sàn gạch xanh, tiếng ‘bụp’ dội ngược lại.
Lương Nguyên Kính cúi người nhặt lại tranh, thờ ơ nói: “Thần vẽ nàng mà, quan gia không nhận ra sao?”
“Ngươi nói cái gì?” Triệu Tòng sững sờ.
Lương Nguyên Kính mở bức hoạ cuộn tròn ra, rũ mắt nói: “Quan gia có từng thấy lời bạt này chưa? Mùa xuân năm Hữu An thứ hai, thần du ngoạn đến Xuyên Thục, dưới chân núi Thanh Thành đã gặp được một tiểu cô nương. Nàng là đứa trẻ bị vứt bỏ, được một đôi vợ chồng tốt bụng nhặt về, coi như vàng ngọc nuôi lớn. Qua mấy năm sau, đôi vợ chồng ấy qua đời, trong nhà chỉ còn huynh trưởng của nàng, hành nghề thợ bạc, tiểu cô nương thích dính người, luyến tiếc tách ra khỏi ca ca, lúc huynh trưởng đánh trang sức bên sạp, nàng sẽ bán nghệ ngay đầu đường. Lúc thần mới gặp nàng, nàng đang ôm tỳ bà xướng bài sơn ca địa phương, tiếng hát lay động lòng người, vang tận mây xanh, nói là nhạc tiên nhân gian cũng không quá đáng.”
Triệu Tòng trầm mặc, hỏi: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó…”
Lương Nguyên Kính ôm bức hoạ cuộn tròn, thong thả bước đến trước ngọn đèn sát đất.
“Vào năm Hi Hoà thứ nhất, thần ở Đông Kinh, gặp lại tiểu cô nương ấy. Nàng gả cho người khác, trở thành Hoàng hậu kim tôn ngọc quý, nhưng ai nấy cũng ở sau lưng coi thường nàng, cười nhạo thân phận ca nữ hàn vi của nàng. Không một ai biết, thật ra nàng rất lương thiện, thẳng thắn thật thà, muốn khóc sẽ khóc thật to, muốn cười sẽ cười thật lớn, nàng thích ăn bánh ngọt nhất, vả lại rất giỏi đàn tỳ bà.”
Sắc mặt Triệu Tòng nghiêm trọng lên.
“Tiểu cô nương làm Hoàng hậu, nàng thật sự không vui, cũng không còn lớn tiếng đùa giỡn nữa, cho dù có cười rộ lên, giữa mày vẫn còn vẻ u sầu không xua được. Đại nội thâm cung tường cao nơi đây, nàng như một chú chim bị nhốt trong lồng sắt sơn vàng, mất hết tự do, dần dần cũng mất đi vẻ xán lạn lúc trước…”
“Im miệng!”
Triệu Tòng càng nghe càng cả giận, lồng ng.ực phập phồng kịch liệt, rốt cuộc không nhịn nổi vỗ án gầm lên: “Lương Hoằng⎯⎯ Ngươi to gan! Ngươi dám phê bình Hoàng hậu!”
“Hoàng hậu?”
Lương Nguyên Kính cười nhạt: “Hoàng hậu của Quan gia chẳng phải mang họ Tiết sao? Tiểu cô nương mà thần nói, nàng không có họ, nàng tên A Bảo, là vợ của thần, là người thần yêu thương nhất đời mình.”
“Ngươi ⎯⎯”
Triệu Tòng tức tối đến mặt mày xanh mét, rất muốn chém chết người này tại chỗ, bỗng nhiên thấy hành động của chàng, hắn trừng lớn hai mắt: “Ngươi! Ngươi muốn làm gì?”
Lương Nguyên Kính vén đèn chụp lên, hơ bức hoạ cuộn tròn lên ánh nến, chất lụa dễ bắt lửa, chỉ sau chốc lát, đã cháy được hơn phân nửa.
Triệu Tòng gào lên, vội vàng nhào qua đoạt lấy.
Ngọn lửa cháy bỏng ngón tay hắn, rất mau đã tứa máu. Dường như hắn không thấy đau, chỉ lo dập ngọn lửa càng lúc càng lớn, nhưng mặc cho hắn có cố thế nào, chung quy gương vỡ khó lành. Khoảnh khắc tranh lụa bị đốt thành đóng tro tàn, mỹ nhân váy đỏ ôm đàn tỳ bà, và cả dung mạo xinh đẹp của nàng, cũng biến mất không thấy đâu.
“Lương ⎯ Hoằng ⎯”
Triệu Tòng hai mắt đỏ ngầu, khoé mắt muốn tét ra, nhào qua đấm một quyền vào Lương Nguyên Kính, túm cổ áo chàng, nghiến răng chất vấn từng câu từng chữ : “Uyển Nương! Nàng ở đâu! Ngươi biết! Nhất định là ngươi biết!”
Lương Nguyên Kính để mặc bị hắn túm, ngước ánh mắt đã không đếm xỉa đến sống chết lên, hỏi ngược lại: “Quan gia chưa biết à?”
Triệu Tòng gào rú như sấm: “Nói cho trẫm! Nếu không trẫm lăng trì ngươi!”
Lương Nguyên Kính nghe thế, ngược lại khẽ mỉm cười. Tựa như cái chết đối với chàng là một chuyện vui mong chờ đã lâu, không đáng để sợ hãi.
Chàng nhẹ giọng đáp: “Nàng chết rồi.”
“Không⎯⎯” Triệu Tòng đỏ mắt nổi điên hét, “Nàng không chết! Đó là nàng diễn trò gạt trẫm! Xưa nay nàng thích đùa vui với trẫm như vậy, chẳng qua… Chẳng qua lần này y như thật hơn chút thôi, nàng về Dương Châu rồi… Phải, nhất định nàng đã về Dương Châu rồi…”
Hắn buông Lương Nguyên Kính ra, vừa gật đầu vừa lải nhải liên hồi, cũng không biết vì thuyết phục người khác, hay là tự thuyết phục chính mình.
Lương Nguyên Kính sửa sang vạt áo lệch lại, lạnh nhạt nói: “Nàng không về Dương Châu, nàng chết rồi, chết vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ tư, trước khi chết, nàng còn chưa kịp ngắm hoa lê nở trong sân. Xác của nàng được chôn ở ngoại ô phía nam, mặc bộ áo mỏng, mộ phần đơn chiếc, trước mộ còn có gốc cây đào. Thanh Minh mỗi năm, ngoại trừ lão phụ nhân từng chăm sóc nàng lúc còn sống ra thì không còn ai tới đó cúng bái nữa. Trước khi hạ táng, nàng còn thừa lại hơi thở cuối cùng, tỉnh lại trong cỗ quan tài tăm tối, sợ hãi bất lực, liều mạng kêu cứu nhưng lại bị người ta đóng đinh nhốt ở bên trong, cuối cùng ngộp thở cho đến chết.”
Triệu Tòng hoàn toàn ngây dại, lẩm bẩm nhìn chàng: “Ngươi…… Ngươi đang lừa ta……”
Lương Nguyên Kính điềm nhiên: “Thần không dám khi quân. Nếu quan gia không tin, có thể gọi Phùng Ích Toàn tiến vào, hỏi liền sẽ biết, không có ai rõ hơn ông ta cả.”
Ánh nến rực rỡ, nội điện tĩnh mịch.
Không rõ qua bao lâu, Triệu Tòng nhẹ nhàng nói: “Trẫm không hỏi, ngươi gạt ta, Uyển Nương chưa chết, các ngươi đều đang lừa trẫm. Lương Hoằng, ngươi không muốn nói nàng đang ở đâu đúng không? Được lắm, trẫm có rất nhiều cách khiến ngươi tự nguyện nói ra.”
Hắn cất cao giọng: “Người đâu⎯⎯”
Phùng Ích Toàn từ ngoài điện tiến vào, khoanh tay đứng hầu.
“Kéo Lương Hoằng đến bạo thất, nghiêm hình thẩm vấn!”
“! ! !”
Phùng Ích Toàn ngẩng đầu, trong mắt chứa đầy nỗi khiếp sợ.
Triệu Tòng chưa được đáp lại, nhất thời ném nghiên mực qua: “Điếc à? Không nghe rõ trẫm vừa nói gì hả?!”
Mặt già Phùng Ích Toàn bị mực nước bắn trúng nhưng không dám nâng tay áo lau đi, cuống quít quỳ xuống dập đầu: “Quan gia bớt giận…”
Ông ta dùng khoé mắt trộm liếc nhìn Lương Nguyên Kính, thấy chàng chỉ hờ hững quỳ dưới đất, hoàn toàn chẳng có chút sợ hãi, khiến ông ta càng không hiểu gì.
Vị Lương đại nhân này, đã làm gì mới chọc Thánh Thượng nổi giận tới vậy chứ?
Ông ta miễn cưỡng lấy hết can đảm, hỏi: “Xin hỏi quan gia, Lương đại nhân đã phạm vào tội gì ạ? Muốn thẩm vấn… Tội gì ạ?”
Triệu Tòng lạnh mặt, gằn từng chữ một: “Hoàng hậu ở đâu?”
Hoàng hậu?
Chẳng phải đang ở Khôn Ninh Điện sao?
Phùng Ích Toàn nhất thời có chút hồ đồ, nhưng thực mau ông ta mới kịp phản ứng lại. E là quan gia nói không phải Tiết Hoàng hậu, mà là năm xưa… Phế hậu Lý thị mới đúng.
Lương Nguyên Kính bị người áp ra khỏi Thuỳ Củng Điện mới hay không rõ từ khi nào bên ngoài đã đổ trận tuyết lớn như lông ngỗng. Đúng lúc như cư dân thành Đông Kinh đã mong chờ, cuối cùng cũng đến.
Cảnh đêm man man, bọt tuyết từ bầu trời đen như mực giáng xuống. Trong đó có một băng nhũ sáu cánh trùng hợp dừng trên lông mi dài mảnh của chàng, chốc lát sau liền tan ra thành nước.
Chàng dừng bước, ngẩng đầu nhìn về phía đông bắc.
Tuyết rơi, núi Vạn Tuế cũng thế, tiếc là không kịp vẽ bức ‘hàn mai tuyết rơi hợp thời’ đem lên núi cho người nọ xem.