Thẩm Mặc một mặt tích cực đàm thoại với binh bộ từ trên xuống dưới, trừ bỏ ảnh hưởng xấu sự kiện tập kích, một mặt điều Thích Kế Quang về thống lĩnh Thần cơ doanh, đồng thời dâng tấu xin cho Đông Ninh hầu Tiêu Anh quay lại thống lĩnh kinh doanh.
Hai đạo sắc lệnh này làm Vương Sùng Cố và Hoắc Kỳ có chút thấp thỏm, đó là thân tin của Thẩm Mặc khó khăn lắm mới đuổi được khỏi kinh doanh sao dễ cho trở lại.
Dù Thẩm Mặc là đại học sĩ phân quản, nhưng muốn xen vào bộ vụ phải xem sức ảnh hưởng của bản thân, nên binh bộ không nể mặt, y phải để xuất trên cuộc họp nội các, được thông qua rồi mới dùng công văn ban xuống binh bộ.
Hai vị thị lang tinh toán, với tình thế của nội các hiện nay, khả năng không thông qua lớn hơn, cho nên bọn họ không chấp hành, ngày hôm đó Vương Sùng Cố tới hỏi ý kiến Dương Bác.
Nghe báo cáo sau, Dương Bác trầm tư rất lâu:
- Nghe nói trên cuộc họp nội các, Từ các lão đề xuất chỉnh đốn binh bộ hả?
Vương Sùng Cố có chút ngạc nhiên:
- Hình như là có.
- Vào lúc này nếu binh bộ đối đầu đại học sĩ phân quản binh bộ, ông thấy sẽ ra sao?
- E càng cho bọn họ lý do.
Vương Sùng Cố lắc đầu:
- Chẳng phải Từ Giai và Thẩm Mặc không hòa thuận sao?
- Không hòa thuận cũng là sư đồ, thân cận hơn chúng ta nhiều. Huống hồ trong làn sóng đảo Củng này, biểu hiện của Thẩm Mặc khiến quan hệ của bọn họ hòa hoãn lớn.
- Y có làm gì đâu?
- Không làm gì là được, triều đình ai chả biết Thẩm Mặc và Cao Củng quan hệ thân thiết, vậy mà y không nói cho Cao Củng một lời..
Dương Bác đưa tay chặn Vương Sùng Cố:
- Ta biết ông muốn nói chuyện Từ Trắc, trong mắt Từ Giai, ta có hiềm nghi lớn hơn.
- Quan trọng là y phân rõ giới hạn với Cao Củng, chắc chắn làm Từ Giai thở phào, cho rằng học sinh là ngó sen chặt đứt còn vương tơ.. Hiện giờ Cao Củng đã đi, giáo huấn đã cấp, Từ Giai sẽ dùng y.
Vương Sùng Có cười:
- Ngài suy đoán quá thiện chí rồi.
- Không phải, ta rất hiểu Thẩm Chuyết Ngôn, đừng thấy y suốt ngày hiền hòa dễ dãi, thực chất là hạng vong mệnh gan lớn chùm trời.
Nói tới đó Dương Bác nhớ tới mùa thu năm ngoái, tên gia hòa này liên tục dụ dỗ lừa gạt lấy sự tín nhiệm của mình, kéo quân đi đánh Yêm Đáp.
Sau chuyện Dương Bác suy nghĩ lại nhiều lần, bị sự điên cuồng ẩn sâu trong bản tính của Thẩm Mặc làm kinh hãi, cho nên sau khi y nhập các mới liền chấp nhận thỏa hiệp, là không muốn triệt để đắc tội với tên điên này.
- Đau đầu.
Dương Bác cười khổ:
- Kẻ lý trí không sợ, kẻ điên không sợ, nhưng kẻ điên có lý trí thì cực kỳ đáng sợ... Vì hành động của y luôn vượt khỏi suy nghĩ của ngươi, khiến ngươi không sao đề phòng cho xuể.
- Vậy phải làm sao?
Thấy Dương Bác kiêng kỵ Thẩm Mặc như thế, Vương Sùng Cố u uất nói:
- Ngoan ngoãn nghe lệnh, giao binh bộ cho y?
- Sao thế được, đợi y qua được ải này hẵng nói, làm sao xử lý được chuyện Vương Nhữ Quan, dẹp sự hỗn loạn trong kinh doanh, đó không phải chuyện dễ đâu... Chúng ta không cần trực tiếp xung đột với y, chỉ cần thông báo cho mấy vị quốc công bảo bọn họ cầm cự, thời gian càng kéo dài, càng có lợi cho ta, càng bất lợi cho y.
Vương Sùng Cố gật đầu:
- Đêm nay hạ quan sẽ cho người chuyển lời.
- Ngoài ra, bảo người trong bộ thu mình lại một chút, đừng để người ta tóm được thóp, ông cũng không thể không nể y chút nào, nhân cơ hội này dùng y diệt đám ngựa hại bầy, lại không cần phải làm người xấu, tội gì không làm.
Vương Sùng Cố gật đầu, đợi Dương Bác nói tiếp, nhưng ông ta đã cầm cốc trà lên uống, hiển nhiên đã nói xong, không khỏi thất vọng:
- Chỉ thế thôi sao? Không chủ động dằn mặt y à?
Đó mới là chủ đích của ông ta.
- Ông muốn làm gì thì cứ làm nấy.
Dương Bác nhìn bầu trời âm u:
- Thời gian này ít tới chỗ ta đi.
~~~~~~~~~~~~~
Rất nhanh Vương Sùng Cố hiểu vì sao, một ngày sau, Chiêm Ngưỡng Tí đàn hặc Dương Bác, nói:" Kẻ đồng lõa đã bị trừng phạt, vì sao tên đầu sỏ vẫn ở trên triều đường?" Lại nói:" Dương Bác là kẻ âm hiểm, Cao Củng ngu xuẩn bị ông ta hãm hại còn giúp đếm tiền."
Lập tức có ngôn quan hưởng ứng, phát động đàn hặc toàn diện với Dương Bác, không chỉ chuyện kinh sát, mà còn cả sự kiện ngầm giảng hòa với người Mông Cổ..
Tính ra sơ hở của Dương Bác mấy năm gần đây còn nhiều hơn mấy chục năm trước cộng lại, kỳ thực ông ta có khổ tự biết, vì cùng với thế lực mới Vương Sùng Cố, Hoặc Kỳ trưởng thành, bọn họ lớn gan hơn, làm việc ít cố kỵ hơn, gặp phong ba luốn đâm đầu vào.
Lớp trẻ nổi lên đoạt quyền, Dương Bác cảm thấy lời nói của mình đã không còn như trước, càng biết, quan trọng nhất là để Từ Giai hả giận rồi hẵng tính. Liền dâng sớ biện hộ, sau đó đóng cửa từ khách, đợi xử lý.
Tiếp ngay đó một công văn đưa ra, trích đăng báo cáo điều tra của tả phó đô ngự sử Lâm Nhuận, tức thì làm binh bộ đã ở đầu sóng ngọn gió, lại cảm thụ được thống khổ núi lớn đè lên người...
Năm ngoái sau sự kiện quân nhu, Lâm Nhuận phụng chỉ ngầm điều tra hệ thống quân nhu, không biết hắn dùng thủ đoạn gì, mò được tận gốc vấn đề, viết thành báo cáo hơn tám vạn chữ.
Nhìn thấy báo cáo đó, nội các chấn kinh, vốn đã dự liệu được chuyện sẽ rất tệ, nhưng không ngờ nó còn tệ gấp chục lần.
Cung cấp quân sự rất lỏng lẻo lại hỗn loạn, cần binh, hộ, công ba bộ hợp lực mới có thể hoàn thành. Trong đó liên quan tới hậu cần ở ba bộ là: Võ khó thanh lại ti của binh bộ phụ trách bảo quản và cấp phát binh khí; hộ bộ chưởng quản quân phí và lương thưởng; công bộ cung cấp chế tạo khí giáp, hỏa dược.. v.. v.. v..
Mỗi năm dự toán quân nhu do binh bộ đề xuất, sau đó tiến hành thương thảo với công bộ hộ bộ, cuối cùng đề xuất ở hội nghị cuối năm của nội các. Trong cả quá trình, binh bộ phụ trách đề xuất tiêu chuẩn, lại phụ trách khâu cấp phát cuối cùng, nên chiếm địa vị chủ đạo.
Nếu TW thống nhất phân phối có thể thỏa mãn nhu cầu quân sự của đế quốc khổng lồ này, nhưng các bộ không có năng lực khống chế sản xuất, chấp hành sản xuất ở cơ cấu không liên quan...
Ví dụ sản xuất khôi giáp, ở ngoại ô kinh thành đặt một binh công xưởng cung cấp 5 vạn bổ áo giáp. Nhưng thực sự công xưởng này mỗi năm chỉ chế tạo 5 nghìn bộ, phần còn lại đặt hàng ở xưởng nhỏ hàng trăm nơi gom lại.
Tuy có một cục binh khí giống như kiểu tổng quản lý, nhưng không có quyền năng thống nhất nhân lực và vật tư, tất nhiên chẳng thể nói gì tới phân công kỹ thuật.
Chẳng cần nói nhiều, kiểu tổ chức hỗn loạn kém chất lượng này là giường ấm ủ cho hủ bại sinh ra. Nên sinh ra những thứ "giáp giấy" thiếu lượng sắt, quy cách lộn xộn, căn bản không có khả năng bảo vệ gì hết.
Các loại vũ trang khác cũng như thế, nên bộ đội có sức chiến đấu mới là lạ.
Nội các tuy phẫn nộ, nhưng ao nước này quá sâu, bên trong liên quan tới cả vương công quý tộc, hoàng thân quốc thích, quan viên các bộ, thậm chí các đại học sĩ cũng nhận hiếu kính từ phương diện này, làm sao mà quyết tâm điều tra cho được.
Đương nhiên hiện giờ "nội các" đồng nghĩa với "Từ Giai", Cao Củng đi rồi, nội các triệt để thành thiên hạ của Từ Giai, các đại học sĩ khác thành A, B, C phụng lệnh làm việc. Trong triều đình quyền thế càng vượt quá hoàng đế, duy ngã độc tôn.
Thực lòng Từ Giai hi vọng chỉnh đốn quân sự, chấn hưng biên phòng Đại Minh, giống như Nghiêm Tung trừ Oa họa đông nam, ông ta cũng muốn giải quyết thát lỗ phía bắc.
Thế nhưng chủ trương của Từ Giai là "bình ổn", hi vọng dùng cái giá thấp nhất đổi lấy quốc lực khôi phục.
Cho nên dù nhìn thấy tệ nạn, ông ta không hi vọng có biến hóa nghiêng trời lệch đất, khuynh hướng điều chỉnh ôn hòa, nhất định phải trong tầm kiểm soát.
Mang tâm lý bảo thủ đó, hiện giờ ông ta có chút thất vọng với Trương Cư Chính, ngược lại thấy Thẩm Chuyết Ngôn cùng tuổi tác tăng lên, mỗi ngày một giống mình, mỗi ngày một thêm vừa lòng với y.
Vì thế trên cuộc họp nội các, Từ Giai ban cho Thẩm Mặc làm đặc sứ toàn quyền, tiến hành chỉnh đốn quân sự trong kinh, hán chế duy nhất là khống chế trong binh bộ, không được lan tới hộ bộ và công bộ, càng không thể cuốn thế gia huân quý vào.
Từ Giai tuy không sợ đám thế gia huân quý, nhưng không muốn xung đột với họ, cho nên đặc biệt dặn Thẩm Mặc phải khắc chế.
Độc đoán có cái lợi là hiệu suất cao, ngay hôm đó thánh chỉ ban bố, bổ nhiệm Thành Quốc công Chu Hi làm tổng đốc nhung chính đại thần, đại học sĩ làm đại thần hiệp trợ.
Mọi người đều biết, Thành Quốc công đảm nhận chính chức chỉ để tỏ ý tôn trọng quân quý thế gia thôi, người định đoạt là Thẩm Mặc.
Xem ra lần này muốn khai đao với nhung chính kinh thành rồi.
*** Cung, nỏ, giáo, mác, kích gọi là nhung, nên chuyện quân đội là nhung chính.
Xem xong thánh thỉ, Vương Sùng Cố và Hoắc Kỳ ngồi không yên, nhớ lại thái độ tắc trách với Thẩm Mặc trước đó, cảm thấy chuyện gay to rồi, vội đi xin chỉ thị Dương Bác.
Nhưng Dương Bác đóng cửa từ khách, ngay cả bọn họ cũng không tiếp, chỉ gửi giấy ra cho hai người:" Với Thẩm Mặc chỉ có thể mềm dẻo, không thể cứng rắn, tự xem mà làm."
Vương Sùng Cố sắc mặt rất khó coi, năm xưa ông ta là tiền bối của Thẩm Mặc, chẳng ngờ người ta đã vào tới nội các, mình còn là thị lang. Nghĩ tới phải nghe y sai bảo, trong lòng khó chịu hết mức.
Hoắc Kỳ nhớ tới một việc:
- Hai đạo sắc lệnh kia đã chấp hành chưa?
- Chưa.
Vương Sùng Cố lắc đầu:
- Vẫn gác ở đó, định đợi xem hẵng hay.
- Còn đợi gì nữa, nếu Thẩm tướng hỏi tới mà chưa chấp hành, chúng ta ăn nói ra sao?
Hoắc Kỳ cuống lên.
- Thẩm tướng cái gì?
Vương Sùng Cố lòng chua chát, nhưng tình thế ép buộc, đành nói:
- Hôm nay muộn rồi, mai ta làm.
- Mai thì muộn rồi.
Hoặc Kỳ nhìn Vương Sùng Cố không sao hiểu nổi:
- Hôm nay phải dùng thập vạn hỏa cấp phát ngay.
Kế trấn cách kinh sư 150 dặm, vừa sáng sớm Thích Kế Quang đang thu được công văn của kinh thành, lập lập tức xuất phát, hắn không dám chậm trễ, hỏa tốc lên đường, sáng hôm sau đã tới Bắc Kinh.
Tắm rửa thay y phục xong, hắn tới binh bộ báo danh, tướng lĩnh thường tới binh bộ ít nhiều bị hoạnh họe, Thích Kế Quang biết từ lâu, chuẩn bị một sấp ngân phiếu trong lòng đợi cắt xẻo.
Ai ngờ người binh bộ đột nhiên trở nên liêm khiết, hắn đưa tiền không nhận, còn pha trà thân thiết bảo hắn đợi trong phòng khách.
Thích Kế Quang nghĩ:" Chẳng lẽ chê ít? Ừm, 20 lượng... Không được phải tăng gấp đôi."
Đang nghĩ lung tung có người gọi:
- Thích tướng quân, mời theo hạ quan.
Thích Kế Quang bấy giờ mới xác định, mặt trời mọc từ hướng tây rồi, nhưng... Vì sao?
Mang theo đầy một bụng nghi hoặc tới khóa viện thượng thư đại nhân, thấy một thanh niên mặc quan phục tiên hạc mỉm cười với mình.
- Mạt tướng tham kiến Thẩm tướng.
Thích Kế Quang vội đi nhanh tới quỳ một gối xuống.
- Đi đi.
Thẩm Mặc nhìn thư lại dẫn đường:
- Ta và Thích tướng quân nói chuyện, không được để người tới quấy rầy.
Thư lại lui xuống, Thích Kế Quang mới đứng dậy, Thẩm Mặc háy mắt với hắn, Thích Kế Quang cười:
- Mạt tướng tưởng các lão đều rất uy nghiêm.
- Chẳng lẽ ta không uy nghiêm à?
Thẩm Mặc vuốt chỏm râu ba tấc:
- Chả nhẽ uổng công để râu?
Thích Kế Quang thiếu chút nữa phì cười, hạ giọng nói:
- Người Sơn Đông giọng lớn, chúng ta vào trong nói chuyện.
Hai người vào phòng, Thẩm Mặc đích thân rót trà cho Thích Kế Quang
- Đi đường vất vả đã nghỉ ngơi chưa?
- Không sao, người quân ngũ mà, mạt tướng chịu được.
- Tẩu phu nhân có khỏe không?
- Khỏe lắm.
- Không bắt nạt huynh nữa chứ?
- …
- Không đánh huynh nữa chứ?
Thích Kế Quang mặt ảm đạm:
- Đại nhân, chúng ta nói vào chính sự đi.
Thẩm Mặc trêu đủ rồi, hồi tưởng:
- Còn nhớ Long Sơn vệ năm xưa không?
- Cả đời khó quên, trong gian tiểu ốc sau núi đó, mạt tướng và đại nhân sớm tối bên nhau nửa tháng, thực sự là hồi ức đẹp nhất đời.
Thẩm Mặc nghe mà sởn hết gai ốc, thầm nghĩ:" Bảo thù ta hả?" Ho khan nói:
- Còn nhớ khi đó đem mỗi điều không hợp thực tế xuống, cứ như lấy mạng huynh vậy.
- Đúng vậy, đó đều là đạo trị gốc bệnh của nhung chính.
Thích Kế Quang kích động:
- Đại nhân, chẳng lẽ thời cơ tới rồi?
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Có điều tốt hơn 12 năm trước nhiều, triều đình từ trên xuống dưới đều ý thức được tầm quan trọng của cải cách, khẩu hiệu "quốc phòng đệ nhất, bắc biên đệ nhất" đa hô hào từ rất lâu, ta cũng đã khác xưa.
- Lần này danh nghĩa triệu huynh về là để nắm Thần Cơ Doanh, đợi qua phong ba này, huynh sẽ nắm sự vụ luyện binh, còn ta toàn lực phối hợp với huynh, thực hiện mộng tưởng năm nào.
- Vâng.
Thích Kế Quang kích động:
- Nhất định không phụ sự ủy thác của đại nhân.
- Về thời gian này, ngoại trừ nắm lại Thần cơ doanh, huynh còn phải viết ra ý kiến về cải cách quân chế cho ta xem, sau đó ta giúp huynh trình lên.
Thẩm Mặc đi sâu hơn vào vấn đề.
Nghe lời Thẩm Mặc nói, Thích Kế Quang lấy ra một bản tấu:
- Mạt tướng sớm đã viết thứ này, mời đại nhân xem qua.
- Ồ, xem ra huynh sẵn sàng rồi.
Thẩm Mặc nhận lấy, thấy bên trên viết (thỉnh binh phá Lỗ tứ sự sớ), nói:
- Huynh giảng cho ta trước đi, ta xem sau sẽ hiểu dễ hơn.
Thích Kế Quang hắng giọng nói:
- Trong tấu, mạt tướng đề xuất, dùng ba năm huấn luyện 10 vạn xa binh, bộ binh, kỵ binh hiệp đồng tác chiến, triệt để xoay chuyển cục diện bị động phương bắc. Sau đó lợi dụng nó làm nòng cốt, thúc đẩy huấn luyện toàn quân, củng cố quốc phòng phương bắc, phản kích tháng lỗ, mộng tưởng có thể thành hiện t hực.
- Cụ thể?
- Nguồn binh sĩ, căn cứ kinh nghiệm của mạt tướng, dùng binh sĩ hiện có tiến hành huấn luyện khó thay đổi được diện mạo quân đội, dù bề ngoài có uy vũ nghiêm chỉnh, nhưng gặp cường địch là tan rã. Cho nên mạt tướng thỉnh cầu điều chỉnh nguồn binh, trong 10 vạn kinh doanh, chọn ra 3 vạn có thể đào tạo làm cơ sở, sau đó chiêu mộ 5 vạn nông dân và thợ mỏ thành thực làm bổ xung, ngoài ra...
Biết trước mặt Thẩm Mặc có thể nói thoải mái, hắn lấy gan nói:
- Điều hai vạn binh sĩ đông nam có kinh nghiệm chiến đấu làm cốt cán, không biết có được không?
Thấy Thẩm Mặc hồi lâu không nói, Thích Kế Quang hỏi nhỏ:
- Phải chăng điều cuối hơi khó?
- Điều nào cũng khó.
Thẩm Mặc chẳng khách khí trừng mắt lên:
- Đương nhiên không thể để đại nhân khó xử.
Thích Kế Quang ảm đạm.
- Chuyện này huynh không cần lo, huynh quan tâm sự vụ cụ thể là được, tội vạ đâu ta gánh.
Thích Kế Quang lòng ấm áp, chỉ có ở dưới sự chỉ huy Thẩm Đại nhân mới không cần lo lắng chuyện ngoài quân sự.
Thích Kế Quang tiếp tục nói ra ý kiến cải cách biên chế, huấn luyện, quân nhu.
Nghe xong, Thẩm Mặc đánh giá rất cao:
- Nguyên Kính huynh ta thấy đây đúng là tinh hoa trị quân, hùng tài đại lược, nếu như có thể thực hiện được hết, bắc cương nhất định triệt để thay đổi.
Nhưng Thích Kế Quang lo lắng hỏi:
- Có điều triều đình liệu có phê chuẩn không?
- Khó nói lắm, chuyện này liên quan tới nhiều phương diện, e không được như nguyện vọng.
- Không sao hết.
Thích Kế Quang rất thoáng:
- Hạ quan đang đưa giá trên trời, đợi triều đình ngồi xuống mặc cả.
- Tâm thái này tốt lắm.
Thẩm Mặc mỉm cười:
- Đúng thế, phàm chuyện gì cũng không thể quá gấp, phải đem tình huống xoay chuyển từng chút một. Có điều bất kỳ hoàn cảnh nào, ta tin huynh không làm ta thất vọng.
Thích Kế Quang gật đầu.
- Tốt. Không cần quá bi quan, hiện giờ triều chính hỗn loạn, sĩ lâm điên cuồng, là lúc tranh thủ thời cơ tốt nhất, nói không chừng may mắn tấu chương của huynh có thể thông qua.
Thẩm Mặc cười vui vẻ:
- Về nghỉ sớm đi, không thể mời huynh tới nhà ta, thật không phải.
- Đại nhân nói gì thế, đây là chuyện bất đắc dĩ mà.
Các thần kết giao đại tướng là đại kỵ, Thẩm Mặc chỉ có thể tiếp kiến Thích Kế Quang ở nha môn công sự.
- Huynh thông cảm là tốt rồi.
Thẩm Mặc đứng dậy tiễn:
- Hôm nay là ngoại lệ, sau này có chuyện, giờ Mùi (3h pm) tới binh bộ.
Tiễn Thích Kế Quang đi, Thẩm Mặc nhìn đồng hồ, mới 8h30 có thể thấy Thích tướng quân tới sớm thế nào.
- Lễ vật chuẩn bị xong chưa?
Thẩm Mặc hỏi Hồ Dũng.
- Xong rồi ạ.
- Chuẩn bị kiệu, tới phủ Đông Ninh hầu.
Phía đông bắc Đông Trực Môn, có ngõ Dược Vương Miếu, từ đó tiếp tục đi về phía đông là ngõ Vạn Nguyên Hồ, phủ Đông Ninh hầu đặt ở đó.
Buổi sáng ngày hôm đó, một cỗ kiệu lớn tám người khiêng dừng trước cửa phủ, gác cửa tinh mặt nhìn ra trang phục hộ vệ là đương sai trong hoàng thành, trong kiệu nhất định là một vị đại học sĩ.
Gác cửa vội đi tới, chắp tay vái thật sâu:
- Tiểu nhân là gác cửa hầu phủ, dám hỏi tôn tính đại danh quý giá, tiểu nhân đi thông báo.
Hồ Dũng liền đưa một tấm thiếp màu xanh đơn giản, gác cửa nhận lấy xem, thốt lên:
- Ra là Thẩm các lão đại gia quang lâm.
Liền quay đầu lại lớn tiếng nói:
- Mau mau mở đại môn đón quý khách.
Đại môn hầu phủ bình thường không mở, trừ khi có quý khách tới, hoặc nghi thức trọng yếu.
Hồ Dũng không khỏi lấy làm lạ, tên tiểu tử này quá liều, còn chưa xin chỉ thị mà đã...
Gác cửa không muốn bị coi là kẻ bộp chộp, vội giải thích:
- Hầu gia nhà tiểu nhân nói, không có Thẩm các lão không lên được tước hầu, bảo chúng tôi coi các lão là khách quý hàng đầu, không mở đại môn là ăn đòn.
- Thì ra là thế.
Hồ Dũng vỡ lẽ.
Kiệu đi qua đại môn, men theo hành lang quanh co, đường mòn trải đá, dừng trước cổng khách đường, Thẩm Mặc theo gia đinh vào phòng.
Mới bước vào trong một giọng nói sang sảng vang lên:
- Ha ha ha, cơn gió nào thổi Thẩm đại nhân tới đây thế?
Thẩm Mặc đứng dậy đón, thấy một hán tử râu quai nón mặc mãng bào xuất hiện, chính là Đông Ninh hầu Tiêu Anh.
Hai người chào hỏi xong chia chủ khách ngồi xuống, Thẩm Mặc nhìn Tiêu Anh khắp lượt:
- Cho dù là giả bệnh thì huynh cũng chuyên nghiệp một chút được không hả?
Tiêu Anh tuy mặc mãng bào kim tuyến, nhưng ngồi vắt chân chữ ngũ, dựa lưng vào ghế, toét miệng cười:
- Trước mặt chân nhân không đóng kịch, vờ vịt làm gì.
Nhìn bộ dạng bất cần đời của hắn, Thẩm Mặc cười khổ:
- Thật chẳng liên hệ được huynh với chủ nhân nơi này.
Thấy y nhìn ra vườn hoa có sắc nước Giang Nam, có đá Thái Hồ, có hoa lạ bốn phương, tinh hoa hội tụ, Tiêu Anh oang oang nói:
- Huynh nói cái vườn hoa này à? Ta ngứa mắt với nó lâu rồi, muốn san bằng nó làm võ trường, nhưng nương tử ta sống chết không cho.
- May mà có tẩu phu nhân.
Với hành vi lấy đàn làm củi này, Thẩm Mặc vạn phần khinh bỉ.
- Ha ha ha, huynh thời gian quý báu, chúng ta không tán dóc nữa, tìm ta có chuyện gì thế?
Thẩm Mặc hắng giọng, chỉnh đốn lại tư duy nói:
- Hầu gia đại nhân, nếu bệnh đã khỏi rồi thì mau đi nhậm chức thôi.
- Chuyện này hử?
Tiêu Anh nhăn nhó:
- Chẳng phải ta làm cao với huynh, huynh bảo ta nắm cấm quân không có vấn đề gì... Nói thực bị Dương Bác cách chức nửa năm, ta sắp mọc rêu rồi.
- Tiến thêm một bước không hay sao, tướng sĩ thập vạn kinh doanh đều do huynh quản.
- Hay ho cái gì?
Tiêu Anh ra sức lắc đầu:
- Ta chiếm chức thống lĩnh Cấm quân đã đắc tội với Anh quốc công rồi, giờ làm đề đốc kinh doanh, Địng quốc công sẽ hận chết ta. Huynh đệ, không phải ta không muốn giúp, nhưng đắc tội với hai vị quốc công sau này ta còn làm ăn được gì?
Quân đội Đại Minh chia ra làm kinh quân, biên quân và vệ quân. Kinh quân là quân đội trú ở kinh sư, biên quân là bộ đội giữ cửu biên, vệ quân phân bố ở vệ sở yếu hại trong toàn quốc, chức trách chủ yếu là duy trì trật tự đối nội.
Về kinh quân, ngoại trừ tam đại hoanh ra, Bắc Kinh còn có hai đơn vị nữa, là Đại nội cấm quân Cẩm Y vệ thủ vệ hoàng cung, cái còn lại là thân quân hoàng đế, trú ở võ tướng tứ vệ trong kinh thành, phụ trách thủ hộ kinh thành, bảo vệ xa giá, trực tiếp chịu trách nhiệm với hoàng đế. Quân lương trang bị đầy đủ nhất.
Hai đơn vị này luôn do Ngự mã giám đại biểu hoàng đế cai quản, nhưng cuối năm Gia Tĩnh, Trần Hồng làm phản, tiên đế đem Đại nội cấm quân giao cho thế gia huân quý; thân quân giao cho binh bộ.
Hiện giờ đại nội cấm quân do cậu ruột của hoàng đế là Khánh Đô bá Đỗ Trọng chưởng quản võ tướng tứ vệ vốn do Tiêu Anh thống lĩnh, nhưng hắn bị Dương Bác cách chức, chuyển cho đệ đệ của Thành quốc công là Chu Hi Hiếu đảm nhậm.
Đó là kết cấu quân lực hiện nay của Đại Minh, Thẩm Mặc muốn động dao, chính là thập vạn kinh doanh, đương nhiên muốn để kinh quân nghe lời mới được.
Hiển giờ đề đốc kinh doanh là Định quốc công Từ Duyên Đức, có điều vị tiên sinh này tuổi cao, sức khỏe không tốt, năm trước xưng bệnh nằm nhà, đã xin từ chức mấy lần. Lần này Thẩm Mặc muốn cải cách, y không sai phái nổi quốc công gia, nên nhân cơ hội xin cho Tiêu Anh thế chỗ.
Nhưng Tiêu Anh xưng bệnh không nhận thánh chỉ, do đó Thẩm Mặc đành tới tần nhà mời hắn xuất sơn.
- Việc này ta không thể nhận.
Tiêu Anh không vòng vo, nói thẳng ra lo lắng trong lòng:
- Huynh biết ta đấy, Tiêu Tử Kỳ này không phải người sợ chuyện, nhưng bên ta tình hình phức tạp, bọn ta sống ở kinh thành hơn trăm năm, mắc míu quá sâu... Hiểu ý ta không?
- Hiểu, họ hàng dây mơ rễ má, sợ phá chén cơm của người ta thì Tiêu gia sau này không còn chỗ đứng ở kinh thành.
- Đúng thế, lại nói Định quốc công thân phận thế nào? Ta sao dám qua mặt?
Đại Minh giờ chỉ còn năm vị quốc công, Ngụy quốc công ở Nam Kinh, Mộc quốc công ở Vân Nam, ba vị Anh Định Thành quốc công ở kinh thành, địa vị hơn cả phiên vương cả đời chẳng được gặp hoàng đế.
Tiêu Anh chẳng phải là công thần khai quốc, chẳng phải là công thần Tĩnh Nạn, mà là quý tộc Mông Cổ quy phục thời Hồng Vũ, được ban cho họ Tiêu.
Vốn hắn chẳng đáng tính trong thế gia huân quý kinh thành, vì được tiên đế sủng ái, địa vị tăng vọt, thoáng có cái thế ngồi ngang hàng với ba vị đại quốc công, nên bị người ta ghen ghét.
- Ta không làm khó huynh.
Nghe hắn giải thích, Thẩm Mặc gật đầu:
- Nếu Định quốc công đồng ý thì sao?
- Sao đồng ý thực lòng được, nếu đại nhân ngài muốn làm chút việc, không chỉ ông ta mà cần hai vị quốc công nữa đồng ý, phải cả ba không ngáng đường thì mới thành công được.
- Nếu cả ba người bọn họ đồng ý thì sao?
- Thì tùy huynh điều khiển, bảo ta đi sang phía đông ta không đi phía tây, bảo ta đuổi chó ta không bắt gà.
Tiêu Anh vỗ bàn nói:
- Được.
Thẩm Mặc đứng dậy:
- Huynh ở nhà đợi nhé.
Tiêu Anh không biết y lấy đâu ra tự tin như thế, nhưng biết tên gia hỏa này nói được là làm được.
Định mưu trước rồi mới làm có cái lợi là tình huống nào cũng đã dự tính trước, hành động là trơn tru, gặp chuyện gì cũng có đối sách.
Chiều ngày hôm đó, Thẩm Mặc chuẩn bị lễ vật tới phủ Định quốc công.
Nhìn tường cao lợp ngói biếc kéo dài bất tận, cảm giác đi nửa ngày không tới cửa phủ, Thẩm Mặc không khỏi cảm khái:" Quả nhiên không sợ không biết hàng, chỉ sợ lấy hàng so hàng, vốn tưởng phủ Đông Ninh hầu đã ghê lắm rồi, hóa ra so với phủ quốc công, xách dép cho người ta cũng không xứng."
Đang nghỉ ngợi lung tung thì kiệu dừng lại, nhìn qua rèm Thẩm Mặc thấy đôi sư tử đá lớn, bảo bên ngoài:
- Đi bẩm báo một tiếng.
Hồ Dũng cầm danh thiếp vừa đi vừa trách:" Đại nhân bận tới hồ đồ rồi, quốc công gia đâu phải muốn gặp thì gặp? Chẳng may người ta không tiếp thì mất mặt."
Hắn ở kinh thành đã lâu, rõ đám quốc công gia này địa vị vững như tường đồng vách sắt, còn quan văn tuy có thể hiển hách nhất thời, nhưng chẳng ai có phú quý lâu dài... Dù Nghiêm Tung quyền khuynh đảo triều đình bao năm cuối đời còn phải trộm bánh trên mộ người ta mà ăn đó thôi.
Trong mắt thế gia huân quý, quan văn đấu đi đấu lại chỉ là trò hề, chẳng biết nhân vật chính diễu võ giương oai trên đài bị đánh cho vĩnh viễn không trở mình được.
Vì thế đám thế gia huân quý luôn khách khí kèm khinh thường quan văn, chẳng hề thực sự coi bọn họ ra gì. Mà quan văn cùng huân quý tương giao luôn là chuyện mẫn cảm, cho nên dù Thẩm Mặc có là đại học sĩ cũng có nguy hiểm bị từ chối tiếp.
Hồ Dũng làu bàu đi tới phía tên gác cửa ăn mặc khí phái, chắp tay nói:
- Làm phiền đưa dùm thiếp, trung đường đại nhân nhà ta tới bái kiến quốc công gia.
Gác cửa vừa khách khí nhận lấy danh thiếp, vừa sai người vào bẩm báo, vừa mời Hồ Dũng uống trà, lễ số chu đáo, làm Hồ Dũng phải cảm khái... Có điều hắn vẫn thầm lau mồ hôi vì đại nhân.
Đợi một lúc lâu cái cửa bên đáng chết không mở ra, bất quá cái cửa chính đáng chết lại mở ra, có một thanh niên mười bày mười tám, môi hồng răng trắng, mang phong phạm đại gia tuyệt trần cách thế xuất hiện:
- Tiểu chất Văn Bích cung nghênh Thẩm thế thúc đại giá quang lâm.
- Làm phiền đại giá thế tử, thật ngại quá.
Thẩm Mặc từ trên kiệu đi xuống, cười tủm tỉm nhìn phong tư tướng mạo Từ Văn Bích, thầm nghĩ:" Đúng là lớp người sau thay lớp người trước, mình chưa cảm thấy già, nhưng nhìn người ta trẻ tuổi, đúng là chẳng bì được."
Lại chẳng biết rằng Từ Văn Bích cũng ngầm cả kinh, dù hắn có nghe tiếng tăm vị các lão trẻ này, nhưng chưa từng gặp, giờ thấy quả nhiên gặp mặt hơn nghe danh..
Chỉ thấy Thẩm Mặc với chòm râu nắm nhánh uy nghi mà nho nhã, đôi mắt như nhìn thấu thế sự, làm Hứa Văn Bích là thế tử quốc công trán cao hơn trời, cũng bị tướng mạo khí chất của y làm khẩn trương, cung kính mời y vào phủ.
Nhìn đại nhân được người ta cung kính mời vào, Hồ Dũng cười tự trào:
- Mình đúng là... kẻ tầm thường tự chuốc lấy phiền não.
Vào phủ Từ Văn Bích mời Thẩm Mặc ngồi lên kiệu nhỏ, hai người cùng ngồi kiệu một trước một sau đi vào.
Kiệu đi qua nguyệt môn, tới thẳng hậu phủ, không ngờ được coi thành khách quan hệ thân thuộc, Thẩm Mặc vẫn bình thản như chẳng hề bất ngờ.
Kiệu đi tới dưới một giàn đậu tía tươi tốt leo khắp tường thì dừng lại, Thẩm Mặc thấy một lão nhân mặc đạo bạo, ngồi trên ghế dài, mỉm cười với mình:
- Kẻ tàn phế không thể trọn lễ số, Giang Nam tiên sinh chớ trách.
Vị lão giả này tướng mạo có vài phần giống Từ Văn Bích, Thẩm Mặc xuống kiệu, nghe Từ Văn Bích giới thiệu:
- Đây là gia phụ.
- Hạ quan Thẩm Mặc bái kiến quốc công gia.
Thẩm Mặc vội chắp tay vái, đáng lẽ đại học sĩ và quốc công dùng lễ ngang hàng, nhưng y không ngại vái vị huân quý đệ nhất đương triều này.
Từ Duyên Đức vội bảo con đỡ Thẩm Mặc dậy, mời y ngồi xuống uống trà, kiệu phu lui xuống, chỉ còn ba người bọn họ.
- Đây đúng là chốn thần tiên.
Giây leo kín mín che lấp ánh mặt trời, gió mát vi vui thổi tới làm lòng người thư thái, Thẩm Mặc khen:
- Quốc công thật biết hưởng thụ.
- Hưởng thụ gì đâu, kéo dài chú hơi tàn thôi.
Từ Duyên Đức cười vui vẻ.
Từ Văn Bích đứng dậy cười:
- Phụ thân và Thẩm thế thúc nói chuyện, con đi pha trà.
- Sao dám làm phiền thế tử.
- Để cho nó đi, hôm nay không có người ngoài, đại nhân cũng đừng gọi nó là thế tử, gọi Văn Bích là được.
- Không dám, không dám.
Từ Văn Bích đứng dậy đi tới một góc giàn đậu giá, ở đó có một cái thùng gỗ treo trên không, dưới đáy thùng tựa hồ là cát lọc, chỉ thấy từng giọt nước như những hạt trân châu chảy vào một cái ống trúc lớn có lớp cát trắng mịn dầy, cuối cùng qua nhiều lần lọc, nước chảy vào một cái chậu sứ Thanh Hoa trắng bóng.
Thẩm Mặc thầm nghĩ:" Cứ tưởng mình uống trà cầu kỳ lắm rồi, ai ngờ núi cao còn có núi cao hơn."
Thấy y nhìn Văn Bích lấy nước, Từ Duyên Đức cười:
- Có điều như thế làm uổng trà thúc thúc nó ở Nam Kinh đưa tới.
Trong đầu Thẩm Mặc hiện lên khuôn mặt viết chữ "tửu sắc" của Từ Bằng Cử, bật cười:
- Không ngờ Ngụy quốc công có nhã hứng đó.
- Ha ha, hắn mà có cái nhã hứng đó thì thứ "long viên thắng tuyết" một năm chỉ có năm cần này chẳng tới lượt ta dùng.
Từ Duyên Đức cười đắc ý.
Nghe thấy bốn chữ "long viên thắng tuyết" Thẩm Mặc tức thì nhớ tới Hồ Tôn Hiến, chẳng biết Mặc Lâm huynh giờ ra sao, đã bình thường trở lại chưa?
Thẩm Mặc vì sao có quan hệ với Định quốc công, điều này phải nói từ tộc phổ Từ gia.
Định quốc công đầu tiên là Từ Tăng Thọ, tứ nhi tử của Ngụy quốc công Trung Sơn Tĩnh Vương Từ Đạt.
Ai cũng biết rằng công thần khai quốc Đại Minh là thê thảm nhất, dưới đồ đao hoàng đế, bất kể văn võ đều không ai có kết cục tốt, chỉ Từ Đạt là ngoại lệ, ông ta chẳng những được chết già mà trong đám con cái có một hoàng hậu, hai vị quốc công, tiếp tục duy trì tới nay, thịnh vượng không thôi, không thẹn là dòng họ thứ hai thiên hạ.
Từ Đạt qua đời, trưởng tử Từ Duy Tổ thế tập tước cha làm Ngụy quốc công, chi này truyền tới đời quốc công thứ bảy là Ngụy quốc công Từ Bằng Cử, đề đông kinh doanh nam kinh.
Từ Tăng Thọ thân là tứ nhi tử của Từ Đạt đương nhiên không được thế tập, khi Chu Lệ làm phản, Từ Tăng Thọ làm nội gián, đem bố trí của triều đình mật báo cho ông ta.
Khi quân Chu Lệ qua Trường Giang, Kiến Văn Đệ phát hiện ra, tức giận đâm chết Từ Tăng Thọ.
Chu Lệ hay tin em vợ bị giết bi thống không thôi, sau khi phá thành Nam Kinh, ôm thi thể Từ Tăng Thọ khóc ròng, đồng phong làm Định Quốc công, cho nhi tử Từ Cảnh Xương kế thừa tước vị.
Từ Cảnh Xương sau này theo Chu Lệ tới Bắc Kinh, ở lại trong phủ đại tướng quân của Từ đạt năm xưa, truyền đời tới nay là Định quốc công thứ sáu, vừa vặn bối phận ngang hàng với Từ Bằng Cử.
Hai phủ quốc công cùng một gốc này trong một thời gian dài như người dưng, vì Ngụy quốc công Từ Huy Tổ trung thành với Kiếm Văn đế. Cho nên người phủ Ngụy quốc công xưa nay cho rằng Định quốc công làm hỏng danh trung nghĩa của Từ Đạt, vì thế đoạn tuyệt qua lại.
Sau này một theo Thành tổ ra bắc, một ở lại nam, cách nhau ngàn dặm, càng không qua lại nữa.
Đương nhiên đó là chuyện xưa cũ rồi, hơn trăm năm trôi đi oán thù lớn đến mấy cũng phai nhạt, thêm vào sau biến cố Thổ Mộc bảo, địa vị huân quý sụt giảm mạnh, tập đoàn quan văn hoàn toàn nắm lấy quốc chính.
Do áp lực cường đại bên ngoài quan hệ hai phủ quốc công hòa hoãn lại.
Mặc dù đều là quốc công, nhưng có khác biệt, Định quốc công gần thiên tử, xưa nay được hoàng đế tín nhiệm, địa vị chính trị hơn Ngụy quốc công.
Nhưng ở Bắc Kinh sói nhiều thịt ít, dựa vào chút bổng lộc điền trang, không nuôi nổi hơn nghìn người trong phủ, tuy cướp cơm của quan binh nhưng cuộc sống vẫn khốn khó.
Còn Ngụy quốc công ở Nam Kinh giàu có, kinh doanh nhiều năm, sản nghiệp vô số, dựa vào bọn họ không ngừng chi viện cho Định quốc công, mới duy trì được cuộc sống xa xỉ.
Một bên có quyền, một bên có tiền, mọi người hỗ trợ nhau lòng an tâm.
Nhưng Từ Tuyên Đức phát hiện, tình hình mấy năm qua đã thay đổi, bĩnh lĩnh Từ Bằng Cử ngày càng lớn, muốn làm việc gì không cần nhờ tới mình nữa, ngược lại còn giúp mình.
Xa đâu chưa nói, năm trước chuyện Từ Duyên Đức làm đế đốc kinh doanh, khi ấy được ủng hộ lớn nhất không phải Định quốc công già cả bệnh tật mà là Thành quốc công trẻ trung mạnh mẽ, ông ta cảm thấy mình hết hi vọng rồi, viết thư cho Nam Kinh kể lể vài câu. Ai ngờ Nam Kinh viết thư trả lời nói:" Ca ca yên tâm, hắn không tranh được cới ca", kết quả...
Từ Duyên Đức làm quốc công mấy chục năm đương nhiên nhìn ra Từ Bằng Cử ngầm giúp đỡ. Ông ta liền bảo nhi tử đích thân tới Nam Kinh cám ơn, đồng thời hỏi chân tướng...
Thì ra Từ Bằng Cử nhờ Thẩm Mặc giúp đỡ, lại sợ lão ca ca cho mình lỗ mãng, liền đem tình hình Thẩm Mặc nói ra, còn nói vống lên Thẩm Mặc và mình có "giao tình sống chết", hoàn toàn có thể tín nhiệm v.. v.. v..
Có điều Từ Bằng Cử biết sự lợi hại của Thẩm Mặc, sợ y biết trách tội mình, vì thế cũng thẳng thắn với y.
Đó là nguyên nhân chủ nhiệt tình, khách bình thản...
Hai người nói chuyện một lúc, Từ Văn Bích tới pha trà, Thẩm Mặc cầm chén trà lên, đưa tới mũi ngửi qua, hơi khép mắt lại lắc đầu nói:
- Hương vị này thanh nhã hơn...
- Ồ, đại nhân uống qua rồi?
Từ Duyên Đức có hơi bất ngờ.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Nhưng không thanh nhã bằng, có thể thấy bỏ công phu thật không uổng phí.
- Mời thế thúc thưởng thức nước trà.
Từ Văn Bích được khích lệ, giục Thẩm Mặc.
Thẩm Mặc nhấm một ngụm nhỏ, ngậm trọng miệng mới thong thả nuốt xuống, mặt đầy vẻ hưởng thụ, ngâm:
- Vào miệng êm êm, xuống bụng thanh thanh..
- Nói rất hay.
Từ Duyên Đức đã uống hai chén nói:
- Có điều Thẩm đại nhân ngày trăm công ngàn việc, e hiếm khi thả lỏng hưởng thụ.
- Đúng thế, hôm nay tới thăm lão công gia, kỳ thực còn có chút chuyện vụn vặt muốn thương lượng cùng ngài.
Thẩm Mặc đặt chén trà xống.
Từ Duyên Đức nhìn nhi tử, Thẩm Mặc lắc đầu:
- Thế tử không cần tránh, cùng nghe đi.
Cha con họ Từ chính có ý đó, chẳng qua làm ra vẻ để đợi câu này của y mà thôi.
- Một là chuyện Đông Ninh hầu tiếp nhiệm đề đốc kinh doanh, ông ấy lòng không dám, ở nhà giả bệnh, hạ quan xin Từ công gia làm ông ấy an lòng.
- Ừm, chúng ta là người nhà cả, không nói lời khách khí, ta làm cao gọi đại nhân một tiếng lão đệ. Chuyện này ta chần chừ không tỏ thái độ vì việc này xưa nay do quốc công đám nhiệm, tư cách của Đông Ninh hầu còn kém một bậc, ta lo hai vị còn lại sẽ có ý kiến. Hai là nghe nói triều đình thay bằng Đông Ninh hầu vì kiên trì "chia doanh luyện binh", cái này quan binh oán trách rất lớn, mấy ngày trước Vương thượng thư cũng bị đành, ta phải nghĩ tới hậu quả.
Quen thì quen, nói tới chuyện cụ thể vẫn chẳng hề khách khí.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Nếu quốc công đã gọi tại hạ một tiếng lão đệ, vậy xin gọi một tiếng lão ca. "Báo cáo điều tra Lâm Nhuận" cho đăng công khai đó thực ra là bản trích dẫn tránh nặng tìm nhẹ, tài liệu chân thực 8 vạn chữ đang nằm tại nội các, rốt cuộc có công khai hay không, Từ các lão chưa quyết.
Đồng tử Từ Duyên Đức co rút lại, gượng cười:
- Cái đó có gì không thể không công khai?
- Đệ cho rằng không công khai thì tốt hơn.
Thẩm Mặc bình tĩnh nói:
- Trên báo cáo nói binh khí, giáp cụ, chiến xa, chiến mã, doanh trướng... Không có thứ nào hợp cách, bì lấy đồ xấu trà trộn nghiêm trọng... Ài... triều đình những năm qua tài chính eo hẹp đến đâu cũng chưa bao giờ nghĩ tới tước giảm kinh phí quân nhu, nội các xưa nay đều ưu tiên tới quân phí trước tiên, nhưng số tiền này rốt cuộc tiêu vào chỗ nào? Nội các và Từ các lão không thể không cần câu trả lời.
Không khí tức thì trở nên nặng nề, Từ Văn Bích nhìn hai người vẻ mặt nghiêm túc, không dám nói một lời.
- Cái này, lão đệ nên đi hỏi binh bộ.
Từ Duyên Đức ngập ngừng nói:
- Quyền mua bán quân nhu xưa nay nắm trong tay binh bộ, bọn họ phát gì chúng tôi dùng cái nấy.
- Vì sao không dị nghị với triều đình, chẳng lẽ binh bộ tước đoạt luôn quyền phát ngôn của các vị?
- Một số chuyện nói cũng vô dụng.
Từ Duyên Đức ánh mắt phức tạp:
- Quốc gia như thế, mọi người cứ giả hồ đồ đi.
- Từ các lão muốn hồ đồ, đệ cũng muốn hồ đồ, nhưng khoa đạo ngôn quan không đồng ý, hiện giờ trong triều đã hình thành công thức chung, khẩu hiệu "quốc phòng đệ nhất, bắc biên đệ nhất" ngày càng vang vọng. Nhất là những quan viên trẻ sớm chịu không thấu khuất nhục Thát Lỗ hàng năm xâm phạm, kinh sư năm nào cũng giới nghiêm. Cho nên chỉ cần nội các không đưa ra xử lý hài lòng trong kỳ hạn, tấu chương sẽ ùn ùn đổ xuống, Thẩm đệ này cũng phải từ chức, nội các còn điều tra rõ ràng.
Vừa nghĩ tới đám ngôn quan điên cuồng như chó dại, Từ Duyên Đức mặt tái nhợt, quốc công thế tập không phải là vô địch, nếu không chẳng có mấy lần bị phế, ông ta không muốn lĩnh giáo sự lợi hại ngôn quan:
- Lão đệ, đừng dọa ca ca.
- Lão ca, đệ vào Ngụy quốc công tuy không chặt đầu gà, đốt giấy vàng thề cùng đất trời, nhưng thân như huynh đệ.
Thẩm Mặc chân thành nói:
- Lão ca là huynh trưởng hắn kính ái nhất, đệ có thể hại lão ca sao?
- Không thể.
- Vừa rồi nói với lão ca cái đó kỳ thực cho lão ca biết hướng gió, chúng ta tránh hại theo lợi, động thủ trước mà thôi.
Từ Duyên Đức đã bị Thẩm Mặc làm mụ mị đàu óc, chỉ biết nói thuận theo:
- Lão đệ, ca ca phải làm sao đây?
- Lão ca cứ yên tâm, có đệ đây nội các không làm khó nhà chúng ta đâu, hơn nữa Từ các lão chấp chính coi trọng chữ "ổn", mặc dù cải cách, nhưng ông ấy hi vọng có quá trình mưa thuận gió hò, có kết quả nội các, binh bộ, kinh doanh cùng chấp nhận, nên cần ba bên phối hợp thẳng thắn, thực hiện mục tiêu chung này.
Từ Duyên Đức đầu óc hơi loạn, cầm chén trà trầm ngâm không nói, Từ Văn Bích tiếp lời:
- Thế thúc cho tiểu chất nói vài câu được không?
- Mời thế tử nói.
- Tiểu chất hoàn toàn đồng ý hiện trạng kinh doanh mà thế thục nói, trước kia theo phụ thân làm việc, biết quân doanh như trò hề, nhân mã vô dụng.
Từ Văn Bích dù sao vẫn còn trẻ, nên lời nói sắc bén:
- Trong lòng tiểu chất ủng hộ cải cách, nhưng tệ nạn trăm năm qua, vương sư đã biến chất lắm rồi., trên dưới chỉ còn đám kiếm cơm ăn mà thôi. Kinh thành thịt ít sói nhiều, huân quý đông đúc, các nhà đều phải phô trương thể diện, tiêu phí quá lớn, thu nhập lại ít. Trong phủ được thúc thúc ở Nam Kinh chi viện, không cần xen vào, nhưng cũng không thể chặn tài lộ người khác, cho nên phụ thân mấy năm qua đành mắt nhắm mắt mở.
Thẩm Mặc không nhịn được cười, thầm nghĩ:" Đại tiểu tử này nhìn thì nho nhã, vậy mà to gan vô sỉ, có tiền đồ, rất có tiền đồ.”
Thấy y cười, Từ Văn Bích chột dạ:
- Tuy tiểu chất nói hơi thẳng, nhưng sự thực là thế, huống hồ kinh doanh không phải do huân quý làm hỏng, mà là thái giám giám quân, bọn chúng toàn diện chưởng quản quân quyền vào năm Tuyên Đức, chiếm đoạt quân lương, bỏ bê huấn luyện, hại kinh doanh thối nát.. Tuy tiên đế đã rút hết thái giám về, nhưng thần tiên cũng không cứu được nữa. Hơn nữa hoạn quan ăn sâu tới tận rễ kinh doanh, chẳng qua đổi phương thức từ ngoài sáng chuyển vào tối, huân quý không cản trở nội đành tận lực duy trì, báo đáp ân tình tiên đế.
Thẩm Mặc ngừng cười:
- Phương thức gì?
- Sản xuất quân nhu, toàn bộ do bọn chúng khống chế.
Từ Văn binh nuốt nước bọt nói.
- Ha ha ha, thế tử không tệ, giúp quốc công gia rũ bỏ thật sạch sẽ.
- Vốn là như thế mà.
Từ Văn Bích thở phào.
- Nếu quân nhu đều do thái giám làm thì tốt rồi, ta còn tường do các vị làm.
Thẩm Mặc cũng như trút được gánh nặng.
- Vì sao lại... tốt?
Từ Văn Bích cảm thấy không ổn.
- Nội các đã thu đủ chứng cứ, sẵn sàng dẹp bỏ công xưởng đen làm hàng xấu hại triều đình.
Thẩm Mặc cao giọng nói:
- Chỉ có điều không biết liên qua tới huân quý hay không, giờ thái tử chứng minh lo lắng của nội các là dư thừa, tất nhiên là tốt.
- Chẳng lẽ? Sắp có hành động?
Từ Văn Bích gian nan nói:
- Mọi chuyện đủ cả, chỉ thiếu gió đông. Thế tử đợi tin tức tốt lành đi.
Thẩm Mặc nghĩ:" Nhóc con muốn chơi với ta hả? Còn non lắm."
- Đừng nghe nói nói bậy, nó không hiểu gì cả.
Từ Văn Bích sắp phát khóc rồi, Từ Duyên Đức đành ra mặt:
- Đại nhân, kỳ thực nội tình ngài đều biết rồi, chúng ta không chơi đùa nữa, ngài nói định làm thế nào đi.
Ý ngầm là, ta có thể đồng ý thì đồng ý, không thể thì... Cá chết lưới rách.
- Như thủ phụ đã nói, phải để mọi người đều chấp nhận được.
Đối phương đã nhượng bộ Thẩm Mặc hòa hoãn hơn:
- Nội các yêu cầu kinh doanh phải chấn chỉnh lại, có sức chiến đấu. Quốc công cung biết đấy, sau khi họa đông nam đã trừ, trọng tâm biên phòng dịch chuyển lên phía bắc, tới lúc giải quyết người Mông Cổ rồi. Để đạt được mục tiêu này biên quân là không đủ, cần khôi phục kinh quân, hai nắm đấm cùng tung ra mới có thể đánh được người Mông Cổ.
Thẩm Mặc chân thành nói:
- Điều này không xung đột lợi ích với huân quý, lịch sử sớm chứng minh, kinh quân hùng mạnh, huân quý thế lớn, kinh quân nhược tiểu, huân quý suy vi, tư vị trong đó, tin rằng các vị cảm nhận sâu hơn ta.
- Đại nhân nhìn rất thấu triệt.
Từ Duyên Đức cười khổ:
- Đạo lý ai cũng hiểu, nhưng ai có thể đảm bảo bỏ đi lợi ích trước mắt sẽ không bị "mất phu nhân lại thiệt quân", lui lại mà nói, thế gia huân quý không vươn tay vào quân đội nữa, ăn rau ăn cỏ có thể sống được, nhưng quan binh già cả bệnh tật bị đào thải thì sao?
Nói tới đây giọng ông ta trở nên nặng nề:
- Thái tổ hoàng đế anh minh, đám hậu bối chúng ta không dám dèm pha, nhưng chế độ quân hộ thật vớ vẩn... Một đời làm quân hộ, đời đời làm lính, không cho làm việc khác. Nói ra có chút bi ai, nhưng làm lính là chuyện bất hạnh, cả đời kiến công lập nghiệp, vì quốc gia đổ máu, vào sinh ra tử... chưa chắc đã bằng một ngày chi hồ giả dã chua lè...
Thấy phụ thân nói có chút mạo phạm, Từ Văn Bích ho khan nhắc nhở, Thẩm Mặc lại gạt đi:
- Để quốc công nói, những lời này phải chất chứa trong lòng nhiều năm rồi.
- Đúng thế, ta nghĩ không thông.
Từ Duyên Đức lộ vẻ bi ai:
- Vì sao tướng sĩ lấy sinh mệnh bảo vệ quốc gia lại bị coi là đám người hạ tiện nhất thiên hạ?
Mặc dù Thẩm Mặc hùng biện vô song, nhưng trước mặt sự thực tàn khốc, mọi lời lẽ trở nên yếu ớt:
- Triều đình chẳng phải mở vệ học, cho phép mỗi hộ một người đọc sách sao?
- Đúng, hoàng ân lồng lộng, nhưng như muối bỏ bể.
Từ Duyên Đức lắc đầu:
- Hơn nữa trúng cử nhân khó nhường nào? Trình độ giáo học vệ sợ lại thấp, mỗi năm chẳng có được mấy cử nhân, nói gì tới tiến sĩ.
- Quay lại câu chuyện, địa vị này, cảnh ngộ này, có thể cả đời làm lính coi như phúc phận của bọn họ. Chỉ có ở trong quân đội, bọn họ mới có cái ăn, mới cảm thấy mình hữu dụng. Nhưng triều đình muốn chỉnh đốn, muốn đào thải kẻ không hợp cách. Đại nhân, ngài đã nghĩ chưa, rời khỏi quân doanh bọn họ có thể làm gì?
Lúc này Từ Duyên Đức thể hiện trọn vẹn độ sâu tư tưởng một vị quốc công:
- Một binh sĩ giải ngũ hoàn hương, là tăng thêm một người dân vô nghiệp, cùng thói quen sống trong binh doanh, khó thích ứng cuộc sống bách tính, chỉ tăng thêm nhân tố bất ổn định trong xã hội.
- Ở triều đại khác, một quan quân rời ngũ đều được tôn kính tương đối, được cho làm lý trưởng, hương trưởng, hoặc làm dân chính giúp quản lý địa phương, với kinh nghiệm bọn họ mà nói, có thể thoải mái hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng hiện thực là, sự nghiêm túc chính xác, kỷ luật nghiêm ngặt được coi là tố chất tốt đẹp trong quân ngũ ở dân gian bị coi là quái vật dị loại, không hòa đồng được.
- Đại nhân, cho nên không giải quyết được những vấn đề này, thứ cho chúng tôi không thể đồng ý.
Từ Duyên Đức kết thúc bài diễn thuyết dài.
Nói trắng ra mà lợi ích của thế gia, quan quân và binh sĩ đều phải đảm bảo, với quan viên khác có lẽ sẽ bối rối, nhưng Thẩm Mặc kinh nghiệm hai đời sao không biết tầm quan trọng của việc an bài quan binh giải ngũ? Cho nên cảm động nhìn Định quốc công:
- Quốc công gia lòng dạ nhân hậu, là phúc của Đại Minh và hoàng thượng.
Ẩn ý là bọn ta có thể không truy cứu trách nhiệm của ông, nhưng cách nói dễ nghe hơn nhiều.
Quả nhiên cha con họ Từ mặt mày nhẹ nhõm hơn.
- Yên tâm, triều đình sẽ có trách nhiệm, vấn đề ngài nói nội các đã nghĩ tới rồi. Hiện giờ có bản thảo sơ bộ, quốc công tham khảo một chút. Trước tiên là kinh doanh phải tinh giảm, nhưng do nội bộ sơ tuyển, binh bộ không quản lý, chỉ tiến hành phúc tuyển danh sách kinh doanh tiến cử, được không?
Như thế đảm bảo chuyện báo cáo láo số lượng, mạo danh thế chỗ sẽ được triều đình bỏ qua.
Vẻ mặt cha con họ Từ nhẹ thêm ba phần nữa.
- Còn quan binh không được tuyển trúng vẫn là người triều đình, nhưng lui khỏi hàng ngũ chiến đấu, sắp xếp việc khác.
Thẩm Mặc bình thản nói ra quyết định có thể thay đổi vận mệnh vạn người.
- Là sao?
Từ Duyên Đức phấn chấn.
- Hai phương hướng, một là truân điền, hai là binh công. Sau này quân đội không cần vừa trồng ruộng vừa thao luyện nữa, bộ đội truân điền không cần đảm đương nhiệm vụ chiến đấu. Giống như thế quân công chỉ chuyên sản xuất quân giới, không làm việc khác.
Từ Duyên Đức im lặng rất lâu mới thốt ra một cầu:
- Làm thế là thay đổi tổ chế.
- Đâu có, chức trách quân đội không hề thay đổi, chỉ phân công kỹ hơn thôi. Khôi phục sức chiến đấu quân đội, mới là tuân thủ tổ chế thực sự.
- Ha ha ha, ta không nói lại đại nhân, dám hỏi đại nhân, truân điền thì điền ở đâu ra, quân xưởng định lập thể nào?
- Ta đã tra duyệt, kinh doanh có 20 vạn khoảnh truân điền, triều đình sẽ phân cho mỗi hộ, cung cấp nông cụ, tin rằng quan binh sẽ rất vui mừng. Còn về quân xưởng, sẽ cấp kinh phí xây căn cứ quân sự cỡ lớn, đủ an trí ba vạn quan binh.
Từ Duyên Đức mặt trắng bệch, gian nan nói:
- Đại nhân đùa à?
Thẩm Mặc thu lại nụ cười:
- Trông ta giống đùa sao?
Giờ Thích Kế Quang đã nắm lại Thần cơ doanh, Thẩm Mặc chẳng sợ kẻ nào đối đầu với mình nữa, lần này tới kỳ thực là tiên lễ hậu binh, chỉ hi vọng thông qua chân thành giảm thiểu va chạm thôi.
Hiểu quyết tâm của Thẩm Mặc, Từ Duyên Đức loạn thật rồi, số ruộng kia sớm bị bọn họ xâm chiếm bảy tám phần; còn quân xưởng, chẳng phải chặt đứt đường sống những quân xưởng đen của bọn họ sao?
Lúc này trời không còn sớm nữa, Từ Văn Bích lần nữa giải vây cho phụ thân:
- Mời thế thúc và phụ thân vào nội đường, vừa ăn vừa nói chuyện.
- Ồ không còn sớm nữa.
Thẩm Mặc như vừa mới phát hiện ra:
- Tối ta còn có hẹn, quấy nhiễu quốc công cả chiều thật áy náy, ngày khác chúng ta nói chuyện nhé.
Từ Duyên Đức cần thời gian suy nghĩ và thương lượng với hai vị quốc công khác, cầu mà chẳng được, nói cho có lệ:
- Một bữa cơm chẳng tốn bao thời gian mà.
- Cũng phải, thịnh tình khó chối từ, vậy quấy nhiễu một bữa.
Từ Duyên Đức mặt rõ ràng cứng lại, nhưng lập tức mỉm cười:
- Vinh hạnh, vinh hạnh.
Khi ăn cơm, hai bên không nhắc tới chuyện tổn thương tình cảm nữa, nói đề tài vui vẻ.. Nói đi nói lại, nói tới Từ Bằng Cử, đúng là tên gia hỏa làm người ta vui vẻ.
Từ Văn Bích rót rượu cho Thẩm Mặc:
- Nghe thúc thúc nói, đông nam khắp nơi là hoàng kim, tùy tiện một phủ đều giàu hơn cả Bắc Kinh, có phải thế không?
- Không phải đâu.
Thẩm Mặc đã bị hai cha con nhà này chuốc ngà ngà say rồi:
- Đại bộ phận không sánh bằng.
- Chất nhi nghe nói, thế thúc ở đông nam nói một là một, các nghành nghiệp đều phải nghe thế thúc.
Từ Văn Binh thân thiết nói:
- Thể diện thế thúc thật lớn.
- Hắn nói lung tung đấy.
Thẩm Mặc mắt lờ đờ, có vẻ như không nghe ra chỗ không ổn trong lời đó, khiêm tốn nói:
- Toàn do bằng hữu yêu quý, có điều thế thúc ta cũng có chút thể diện.
- Đương nhiên rồi.
Từ Văn Bích lại rót rượu cho y:
- Nếu chất nhi ở Nam Kinh, thế thúc khẳng định có thể chỉ điểm cho chất nhi theo kiếm chút canh.
- Ở Bắc Kinh cũng được mà.
Thẩm Mặc cười ha hả:
- Phương nam khắp nơi hoàng kim, dựa vào cái danh của nhà ngươi, tuyệt đối có thể kiếm được một chén canh.
- Ồ vậy mua ruộng hay mở xưởng thì tốt hơn.
Từ Văn Bích cùng cha hắn giương tai lên:
- Thế thúc nói mau, chất nhi sốt ruột quá rồi.
- Được, được, nói, ngươi ở Bắc Kinh, mua đất hay mở xưởng ở đông nam đều không tiện, cường long không áp được địa đầu xà.
- Vậy còn bảo khắp nơi hoàng kim.
Từ Văn Bích có chút thất vọng.
- Thời buổi này cái gì quý nhất? Cơ hội.
Thẩm Mặc vung vẩy hai tay, giọng cũng kéo dài ra:
- Chỉ cần ngươi nắm được cơ hội, thì tìm được núi vàng, tiêu cả đời không hết.
Rồi cười thần bí:
- Hiện đang có cơ hội tuyệt hảo.
- Cơ hội gì?
Hai cha con họ Từ nín thở, sợ nghe sót chữ nào đó.
----- oo0oo-----
Chương 798: trên đời này, ai sợ ai.- Lữ Tống, biết vì sao đám Vương Trực, Từ Hải bỏ tiền ra chi viện Lữ Tống không?
- Chẳng phải vì thủy sư không dung bọn chúng nên tranh thủ đi kiếm cái danh bá tước, sau này có chỗ dựa dẫm sao?
Từ Văn Bích hỏi nhỏ.
- Đều là lời mặt ngoài thôi.
Thẩm Mặc rượu vào lời ra:
- Bọn họ kiếm ăn trên biển, biển mới là chỗ dựa, vả lại bọn họ là hải thương chỉ biết có lợi, sao có thể vì chút khí phách đi đánh nhau với hải quân Tây Ban Nha cường đại.
Bọn họ chẳng biết hải quân Tây Ban Nha mạnh chỗ nào, chỉ biết tơ lụa, trà, đồ gốm và các loại xa xỉ phẩm hàng năm chảy cuồn cuộn về Tây Ban Nha, nghe nói cái thủ đổ gì ấy toàn là vàng, người Tây Ban Nha đúc nó thành Ưng Nguyên, mang tới Đại Minh mua đồ về cho quốc vương và quý tộc hưởng thụ.
*** Ưng Nguyên, bạc TBN đúc.
Tri thức này Từ Văn Bích nghe ngóng được trong chuyến đi Nam Kinh.
Cho nên hai cha con họ Từ tin, đám hải thương mạo hiểm đánh Lữ Tống là vì lợi ích dụ hoắc chẳng phải vì bá tước vớ vẩn gì.
- Kỳ thực bí mật ở vị trí của Lữ Tống.
Thẩm Mặc lè nhè nói:
- Nơi đó là cửa cảng quan trọng nhất từ Đại Minh tới Châu Mỹ, khống chế nó, là khống chế còn đường hoàng kim, ý nghĩa có cần ta nói nữa không? Hơn nữa ở đó sản xuất hương liệu, hoàng kim, cùng các sản vật quý gia, dù không có tuyến đường ấy cũng kiếm lớn.
- Nhưng quốc vương họ chịu nhường ra sao?
Từ Duyên Đức không kìm được hỏi.
- Mùa xuân năm nay, quốc vương Lữ Tống đã tuẫn quốc trong một trận hải chiến rồi.
- Vậy người dân không hoan nghênh thì sao?
- Nơi đó có mấy vạn di dân Đại Minh, đang nghển cổ đợi vương sư, nghe nói bọn họ muốn kiến lập phiên quốc hải ngoại, tin rằng hoàng thượng sẽ rất vui.
Từ Duyên Đức hỏi nhỏ:
- Nhưng liên quan gì tới chúng ta.
- Bọn họ muốn giữ đường biển thông suốt cần được triều đình và Tây Ban Nha thừa nhận, nếu có người giúp được họ, đồng thời làm bảo hộ cho họ, bọn họ vui vẻ đóng tiền bảo hộ hàng năm, hoặc hoan nghênh tới Lữ Tống cùng kinh doanh chia lợi ích.
- Có thể kiếm được bao tiền?
Từ Văn Bích tò mò hỏi:
- Phải xem hợp tác tới mức độ nào, nhưng chắc chắn là phải tính bằng hàng chục vạn, có điều nếu là ta, nhất định không cần tiền, nơi đó đất đai phì nhiêu bao la, hỏi xin bọn họ mấy vạn khoảnh, rồi phái người tới kinh doanh, sản xuất, bản cho Đại Minh bán cho Tây Ban Nha, có sẵn cửa cảng tiện lợi, lại chẳng lo nguồn tiêu thụ, đó là cơ nghiệp ngàn đời.
Hai cha con họ Từ nghe y nói mà tim đập thình thịch, hận không thể vỗ cánh bay tới Lữ Tống xem nên lấy bạc hay lấy đất. Ổn thỏa tất nhiên là lấy bạc, nhưng mấy vạn khoảnh đất, tuyệt đối đáng phải người tới xem... Chẳng may là thật thì sao? Cần gì tranh ăn ở Bắc Kinh nữa...
Muốn hỏi thêm thì Thẩm Mặc đã say không còn nói lên lời nữa rồi, đành thôi, nấu canh tỉnh rượu cho hắn sau đó gọi thị vệ Thẩm phủ đưa về.
~~~~~~~~~~~~~~~~~
Trời tối mù, biển đen ngòm, sóng ngợp trời, trên mặt biển mênh mông, ông trời dùng tiếng động kinh hãi tuyên bố quyền uy vô thượng của mình.
Giữa biển khơi như nồi nước đang sôi đó, có một đội thuyền đang cố gắng vẫy vùng, thứ đồ vật khổng lồ thường ngày diễu võ giương oai đó, thời khắc này sao mà mong manh, nhỏ yếu...
Gió bão ngày một lớn, những cơn sóng ngập trời đánh vào mạn thuyền, làm con thuyền lớn run rẩy, phát ra tiếng răng rắc làm răng người ta va vào nhau cồm cộp, dù là thủy thủ có kinh nghiệm nhất cũng lộ vẻ khiếp sợ.
Lái chính và thủy thủ trưởng tới phòng thuyền trưởng, thỉnh cầu thuyền trưởng trẻ tuổi chặt cột buồm, nếu không thuyền lật mất.
Thuyền trưởng đó cự tuyệt, còn yêu cầu bọn họ hướng về phía tây, đi theo chiều gió...
Đây là việc mạo hiểm cực lớn, vì như thế tức là đem quyền khống chế con thuyền cho cuồng phong quyết định...
Hai người khuyên nhủ hắn, chặt đứt cột buồm, sau đó buộc đá ngàn cân ném vào trong biển, ít nhất có thể khiến thuyền ổn định một chút.
- Ngu xuẩn, thuyền chúng ta tuy kiên cố, nhưng tải trọng quá lớn, ăn nước quá sâu, nếu đi chậm lại kháng cự sóng gió, chắc chắn thân thuyền không chịu nổi bao lâu.
Thuyền trưởng rút kiếm ra, chém đinh chặt sắt nói:
- Đừng nói nhiều, đi truyền lệnh của ta, kẻ nào kháng lệnh chém lập tức.
Lúc này một vị tướng quân mặc Sơn Văn giáp xuất hiện nói:
- Phục tùng thuyền trưởng đi.
Hai người địa vị cao nhất đã nhất trí, mọi người biết không thể thay đổi được nữa, đành xoay người, lảo đảo rời khỏi khoang mặt vàng như nghệ.
Nhìn tín hiệu kỳ hạm phát ra, những thuyền khác không sao tin được, cho rằng người kia điên rồi. Nhưng kỳ hạm chuyển hướng tăng tốc đi về phía tây nam, bọn họ căn bản không có thời gian suy nghĩ, tránh khỏi rớt đội, đành vừa chửi bới vừa đi theo.
Xoẹt, một tia chớp xẹt qua bầu trời, chiếu sáng không gian đen ngòm, đội thuyền nối tiếp nhau nương theo cơn bão, phá sóng chém gió, lao vùn vụt về phía nam...
Các thủy thủ thắt chặt dây thừng, lái thuyền nỗ lực hết mình, nhưng dưới sức mạnh đại tự nhiên, tất cả như muổi bỏ biển... Phải xem bão tố cuối cùng sẽ đưa bọn họ tới đâu.
Tất cả đều thành khẩn cầu khấn, xin Vương Mẫu nương nương, Quan Âm bồ tát, đức mẹ Maria phù hộ, cầu ông trời tha thứ...
Trong bão bùng dày vò đó, thuyển trưởng thanh niên thuy chung đứng thẳng, mặt không có chút hoảng loạn nào, thủy thủ ngẩng đầu lên, thấy khuôn mặt trấn tĩnh, thân hình vững như Thái Sơn đó, lòng không hoàng loạn nữa...
Không biết qua bao lâu, sóng cuộn trào, mây vẫn vần vũ, nhưng mọi người cảm thấy rõ ràng, mình cách nguy hiểm ngày càng xa rồi...
- Đức mẹ phù hộ.
- A di đà phật.
- Thánh allah linh thiêng...
Đám thủy thù quỳ xuống, khấu đầu với thần thánh của mình.
- Kỳ thực bọn họ nên cám ơn ngươi mới đúng.
Vị tướng quân kia nói.
- Cởi ra cho ta đã.
Thuyển trưởng nghiến răng nói, thì ra hắn trói mình vào cái cột bên cạnh, chẳng trách đứng vững như thế.
- Có điều ta rất tò mò.
Vị tướng quân cởi giây thừng, đỡ hắn ngồi xuống ghế:
- Quyết định của ngươi là do lòng tin hay thử vận khí?
- Ta không lấy tính mạng hơn ngàn người ra đùa.
Thuyền trưởng xoa lưng, nói khô khốc:
- Gặp phải bão tổ không tránh được thì ngàn vạn lần không thể dừng lại, chỉ có cách thuận theo rìa bão thoát ra.
- Chẳng may bị cuốn vào thì sao?
- Gặp nhiều sóng gió rồi là biết tính khí của nó, ta quan sát nó di chuyển theo hướng chính bắc, tất nhiên phải di chuyển theo, tránh đi mắt gió...
Thuyền trường đưa tay xoay theo vòng tròn:
- Loại gió này có mắt, xoáy từ nam sang bắc, mắt gió ở hướng bắc, hút gió tây...
- Thôi thôi.
Vị tướng quân nghe chóng cả mặt:
- Thoát khỏi nguy hiểm là được.
- Không dám nói sớm, mắt gió nếu thay đổi hướng thì chứng ta chết chắc.
-.....
Tướng quân một lúc mới bực tức nói:
- Ngươi không thể thiếu trách nhiệm như thế.
- Ngươi tiếp tục cầu khấn đi.
Thuyền trưởng nhắm mắt lại, không ngờ lúc sau có tiếng ngáy phát ra.
Khi viên thuyền trưởng tỉnh lại, phương đông tỏa nắng, gió đã dừng, bầu trời xanh ngắt.
Vặn lưng đứng dậy, thuyền trưởng tới đài quan sát, nhìn thấy một, hai, ba, bốn, năm chiếc thuyền vẫn còn, hắn liền yên tâm.
Đón nhận thủy thủ reo hò xong, hắn bảo mọi người dọn dẹp sàn thuyền, sửa chưa hư hại, bản thân nhìn ra mặt biển bao la, hít đầy gió biển vào lòng ngực:
- Còn sống thật là tốt.
Lúc này hắn nhớ lại mười năm trước lần đầu rời quê, tới Áo Môn kiếm sống, khi đó hắn chưa có tên tuổi, chỉ có nhũ danh là A Phượng.
Áo Môn vốn là thôn cá nhỏ tên Hào Kính Úc, nghe nói vì người Tây Ban Nha thuê nó của quan phủ, nên mới có cái tên dễ nghe là Áo Môn.
Đâu chỉ cái tên thay đổi, thôn cá nhỏ không còn nữa, thay vào đó là phòng ốc cao cao, đường đi to lớn tấp nập, thương nhân qua lại huyên náo, đủ mọi dân tộc dung mạo kỳ quái, trang phục là thường...
Hôm đó ánh mắt trời cũng như hôm nay, chiếu lên khuôn mặt non nớt của hắn, mắt hắn nhìn không chớp, chỉ sợ nhìn sót cái thế giới lạ lùng này.
Nhưng khi hắn tới bến tàu, đứng dưới bóng râm chiếc thuyền biển khổng lồ, trong mắt hắn không còn thứ gì khác nữa...
Năm đó hắn 17 tuổi, làm một thủy thủ cấp bậc thấp nhất, đồng thời tự đặt tên cho mình, Lý Bôn Mã, cái tên nhanh chóng khiến người ta kinh hồn táng đởm.
Khi ấy triều đình và giặc Oa đánh nhau tới cao trào, chuyện làm ăn bình thường không tiến hành được nữa, Từ Hải, Trần Đông, Diệp Ma Tử liên tiếp thắng lợi, làm đám hải thương nhìn thấy cơ hội phát tài lớn...
Nếu không cần giao dịch, cứ đi cướp là phát tài, tin rằng trên đời này chẳng còn ai chịu làm ăn nữa, vì thế rất nhiều hải thương biến thành "lục lâm trên biển", trong đó có Thái lão ông thuyền chủ của Lý Bôn Mã.
Do cơ trí dũng cảm, có thiên phú hải chiến, Lý Bôn Mã mau chóng vươn lên, được Thái lão ông tín nhiệm, 20 tuổi hắn thành thuyền chưởng kỳ hạm chủ lực, danh tiếng lẫy lừng vùng Mân Quảng. Sau khi Thái lão ông bệnh qua đời, hắn kế thừa sự nghiệp, thành thủ lĩnh hải tặc.
Khác với đám hải tặc khác, Lý Bôn Mã có tầm nhìn xa trông rộng, hắn biết dựa vào cướp bóc người dân là không có tiền đò, sớm muộn cũng bị quan binh tiêu diệt, vì thế muốn thay đổi cách làm ăn.
Có lẽ ảnh hưởng bởi Thủy Hử, hắn giương ngọn cờ " lấy của kẻ giàu chia người nghèo", chọn đảo Bành Hồ làm căn cứ, chiêu nạp bách tính nghèo khổ, mở rộng đội ngũ.
Nhân lúc kẻ khác say mê cướp bóc hắn tích cực khai thác mậu dịch trên biển, vài năm thôi đã có hơn 300 thuyền hạm, hơn 4 vạn dân. Hơn nữa tung hoành trên biển, chưa từng lạm sát người vô tội, tiền tài thu được chia đều, nên được mọi người yêu quý, thế lực lớn dần.
Thế nhưng phong vân biến ảo, Trần Đông, Diệp Ma Tử nối nhau mất đầu, Từ Hải quy hàng, ngay lão thuyền chủ sau khi chạy thoát thân, chẳng những không báo thù, còn nhận chiêu an của triều đình.
Hắn cũng muốn học theo, nhưng Từ Vương không muốn, vì thế lực của hắn bành trướng quá nhanh, không diệt trừ, sau này lại có thêm đôi đũa chia cơm.
Vì thế Vương Trực bịa ra chứng cứ hắn câu kết với người Nhật Bản, ý đồ chiếm đóng Đài Loan, hi vọng quan phủ nổi giận...
Khi đó Hồ Tôn Hiến cũng cần không ngừng chiến tranh để duy trì địa vị, vì thế hắn thành đối thủ chủ yếu. Đầu tiên là Thích Kế Quang vượt biển hủy căn cứ của hắn, tiếp đó hắn bị Hồ Thủ Nhân đánh bại, chạy tới nhận triều đình chiêu an, nhưng tổng đốc Lưỡng Qảng Dực Vân Hứa không chấp nhận...
Mất căn cứ, Lý Bôn Mã đành dẫn thuyền lênh đênh trên biển, bị thủy sư và Mao Hải Phong dẫn đội thuyền Ngũ Phong truy sát, đánh chìm mấy con thuyền, Lý Bôn Mã mất tích.
Ghi chép của chính phủ về Lý Bôn Mã dừng ở đó, trong mắt mọi người hắn chết là cái chắc, hắn cũng nghĩ vậy.
Nhưng khi hắn tỉnh lại, phát hiện ra mình ở trong thành Áo Môn, ở cái bến tàu khắc sâu trong tâm trí đó, bên bến tàu là một con thuyền cực lớn, trông còn tiên tiến hơn cả con thuyền hắn thấy năm xưa.
Nghỉ ngơi một thời gian, khi hắn phục hồi có một người tên Khai Dương tiên sinh cùng hai võ nhân xuất hiện trong gian phòng của hắn.
- Sao ông cứu ta?
Lý Bôn Mã không hàn huyên, hỏi thẳng.
- Vì ngươi rất có giá trị.
Khai Dương tiên sinh cũng không giấu diếm:
- Cho nên bọn ta hối lộ Mao Hải Phong, khi chiến hạm ngươi chìm, lập tức cứu ngươi lên.
- Ta có giá trị gì?
- Ta thấy ngươi là nhà hàng hải có thiên phú lãnh đạo, có hùng tâm, lại còn rất trẻ. Ta muốn thu ngươi làm đồ đệ.
- Ông là ai?
Lý Bôn Mã hồ nghi:
- Giấu đầu lộ đuôi không phải là hảo hán.
- Nếu muốn thu ngươi làm đồ đệ, đương nhiên không giáu ngươi.
Khai Dương tiên sinh bình thản nói:
- Ta là Trịnh Nhược Tằng, chắc ngươi từng nghe nói tới ta.
- Ông là mưu sĩ của Hồ Tôn Hiến.
Nếu không phải có hai đại hán nhìn chằm chằm, rất có khả năng Lý Bôn Mã lao tới bóp chết ông ta:
- Ngươi bày mưu kế hại chết bao huynh đệ của ta.
- Sai, ta đã rời khỏi đại soái mấy năm rồi.
Trịnh Nhược Tằng mặt bi ai:
- Hơn nữa đại soái cũng đã cởi giáp về quê rồi.
- Vậy hiện giờ thân phận của ông là gì?
- Tổng tài công ty Nam Dương.
- Chưa từng nghe qua.
- Mới thành lập thôi,
Trịnh Nhược Tằng nhìn ra ngoài:
- Tất cả thuyền trên bến tàu này đều của công ty.
- Thực lực không nhỏ, 30 chiếc hạm thuyền lớn tối tân, 50 thuyền hàng, đều là mới hạ thủy.
- Không tệ, xem ra đầu óc ngươi không để lại di chứng gì, ta rất mừng.
Trịnh Nhược Tằng gật gù.
Lý Bôn Mã trừng mắt lên:
- Công ty Nam Dương là của người Phật Lang Cơ à?
Đánh chết hắn không tin tên gia hỏa nghèo đói này là chủ nhân công ty.
- Không, của hào tộc đông nam.
- Cửu đại gia? Thôi, không hỏi nữa, biết nhiều chẳng có lợi cho ta.
Lý Bôn Mã mặt sầm xuống:
- Bộ hạ cùng người dân đi theo ta sao rồi?
- Yên tâm, rất tốt.
Trịnh Nhược Tằng cười:
- Thẩm Kinh Lược tiếp nhận bọn họ quy thuận, cho hộ tịch mới, sau này sẽ có cuộc sống an lành. Ngươi có thể về thăm bọn họ một cách quang minh chính đại, ngươi được miễn tội rồi.
- Thật sao? Xem ra sức mạnh công ty Nam Dương không nhỏ.
- Đúng, có đồng ý làm đồ đệ của ta không? Làm đồ đệ của ta rất sướng, ta không chỉ không đánh không mắng ngươi, còn đưa ngươi tới cảnh giới cao hơn..
Trịnh Nhược Tằng chỉ ra ngoài:
- Những con thuyền kia đều ra ngươi quản.
Đổi lại là một cái hừm của Lý Bôn Mã:
- Ta còn đường lựa chọn sao?
- Ha ha, cũng phải, đúng rồi, vi sư sau này xưng hô với ngươi ra sao, gọi là Bôn Mã à?
-...
Lý Bôn Mã thầm nghĩ:" Người này thật không biết xấu hổ, còn chưa bái sư đã xưng vi sư rồi" Có điều hắn chẳng buồn so đo:
- Lý Bôn Mã đã là lịch sử, ta vốn họ Lâm, nhũ danh A Phương, cứ gọi ta là Lâm Phượng đi.
Bái sư xong, Lâm Phượng phát hiện mình không phải là đồ đệ... À gọi là học sinh duy nhất của Trịnh Nhược Tằng. Thì ra trong Cty Nam Dương, mơ một lớp huấn luyện thuyền trưởng, hắn là một trong 15 người khóa 1.
Trịnh Nhược Tằng là chủ nhiệm lớp, đồng thời mời hơn mười giáo viên Tây Dương dạy học, ông ta đích thân dạy "quốc học", "hải dương chính trị học" và "đạo đức", nhưng người khác dạy số học, địa lý, lịch sử hóa học và tri thức hàng hải tiên tiến nhất thế giới.
Học tập hết sức nghiêm khắc, một học kỳ thi ba môn không hợp cách bị khai trừ, hai môn không hợp cách bị cắt lương một học kỳ, một môn không hợp cách bị giảm nửa lương.
Mặc dù hiện giờ là học viên nhưng lương bổng của bọn họ bằng quan lớn nhất phẩm trong triều, nên đành cắn răng kiên trì không bỏ học.
Trừ một năm ba tháng thực tập, thời gian còn lại Lâm Phượng và bạn học ngày lặp đi lặp lại những môn khô khan, có người không theo được phải nghỉ... Nhưng nghe nói về sau được an bài vị trí không tệ trong công ty, có lúc hắn cũng muốn bỏ cho xong...
Qua ba năm, cả lớp chỉ còn lại hắn và năm người khác tốt nghiệp...
Hắn được bổ nhiệm làm quan chỉ huy hạm đội hộ tống thứ năm, chỉ huy năm chiếm hạm võ trang tận răng, chuyên môn phụ trách tuyến đường hải tặc hoạt động mạnh nhất.
Trong nửa năm, hắn hoàn thành 50 chuyến hộ tống, 27 lần gặp hải tặc, 27 lần đánh lui, đánh chìm 25 chiếc thuyền, bắt sống hơn 2000 tên, uy danh chấn động Nam Dương.
Tháng trước hoàn thành nhiệm vụ vể càng nghỉ ngơi, hắn nhận một nhiệm vụ bí mật, đem hơn 1500 lính đánh thuê, tấn công đảo Lữ Tống.
Là quan chỉ huy hạm đội, hắn cực kỳ mẫn cảm với sự kiện xung quanh, năm nay chuyện thu hút sự chú ý của hắn nhất là, liên quân Ngũ Phong đánh Lữ Tống.
Từ năm ngoái, triều đình tuyên bố chỉ dụ nếu người chí nguyện đánh thắng quân Tây Ban Nha sẽ được phong Bá tước, làm cả giới hải thương sôi sùng sục.
Vì thế bọn họ tập trung trên đảo Đài Loan, thúc giục Vương Trực dẫn đầu xuất binh.
Kỳ thực Từ Hải là nhân tuyển tơn hơn, nhưng Từ Hải và Vương Trực đã phân chia địa bàn, đông nam dương không phải địa bàn của hắn, cho nên dù hắn ngứa ngày chân tay, cũng chỉ nhìn mà thở dài, không dám đắc tội với Vương Trực.
Vương Trực tuổi cao, hùng tâm tráng chí đã tiêu hao hết, muốn Lữ Tống lại không muốn đắc tội với người Tây Ban Nha, cứ do dự tới ba tháng mới hạ quyết tâm sai Mao Hải Phong liên hợp các hải thương, tập trung 62 chiếc thuyền lớn nhỏ, lập nên hạm đội 2000 người, xuất phát từ đảo Đài Loan, tấn công Lữ Tống.
Nhưng chuẩn bị quá lâu, mất hiệu quả bất ngờ, vừa vào vịnh Mã Ni Tạp liền bị thuyền tuần tra Tây Ban Nha xuất hiện, tổng đốc Lê Nha đích thân dẫn quân đón đánh.
Đối phương đã có chuẩn bị tốt nhất là phải né tránh, nhưng Mao Hải Phong ỷ vào binh lực vượt xa đối phương, dàn trận đối công.
Song chiến trường chẳng phải cứ quân đông là thắng, hải chiến càng như thế, hạm đội của hắn tuy đông, nhưng từ vũ khí tới sức chiến đấu kém xa hải quân Tây Ban Nha.
Hai bên hai lần đối chiến, Mao Hải Phong đều thảm bại, 15 con thuyền cùng hơn 500 vùi thân dưới biển, Mao Hải Phong đành rút lui.
Thấy đánh lui quân Minh, Lê Nha thở phào, kỳ thực thấy hạm đội rầm rộ đó, hắn cũng run, nếu đấu không lại, vất vả hi sinh bao năm qua thành uổng phí hết.
Nhưng hắn mừng quá sớm, quân Minh không lui về Đài Loan, mà vào cảng Đại Mạo phía bắc Lữ Tống, đồng thời lập rào dựng trại, thiết lập pháo đài, chuẩn bị thường trú ở Lữ Tống, đồng thời được người dân đương địa hoan nghênh ủng hộ.
Lê Nha ăn ngủ không yên, qua một thời gian chuẩn bị hắn điều động toàn bộ binh lực có thể điều động ở Châu Á, gồm 5 chủ hạm, 30 thuyền nhẹ, 600 lục chiến đội, 5000 quân các tộc, chia quân làm hai ngả. Ý đồ tạo thành đe dọa hai mặt thụ địch.
Đội đột kích trên biển nhân lức bóng đêm tới cảng Đại Mạo, phát hiện toàn bộ chiến thuyền neo trong cảng, thủy thủ đều lên bờ nghỉ ngơi, chỉ có số ít trông coi, kết quả toàn bộ hạm đội bị người Tây Ban Nha thiêu hủy.
Trên lục địa, quân Tây Ban Nha giết chết hơn 100 tên "hải tặc" ở ngoại vi... Đúng vậy người Tâ Ban Nha gọi bọn họ như thế.
Lúc này đội đột kích trên biển cũng gia nhập, hình thành thế gọng kìm, nhưng Mao Hải Phong dù sao là lão tướng kinh nghiệm trận mạc, liền sai đốt cháy hàng rào doanh trai, nơi đó vốn chất đầy cỏ khô, tức thì lửa cháy ngùn ngụt, người Tây Ban Nha không đánh vào được.
Lợi dụng cơ hội đó, Mao Hải Phong tập trung quân chỉnh biên lại, chống chọi qua được đêm nguy hiểm nhất.
Ngày hôm sau kế hoạch của người Tây Ban Nha là dàn trận tấn công, nhưng không thẹn là thổ phỉ, cứ điểm của Moo Hải Phong không chỉ kiên cố còn có mấy khẩu đại pháo, rất nhiều tiểu pháo, đúng là cái vỏ rùa cứng rắn.
Người Tây Ban Nha đạn dược không đủ, đành bỏ tấn công, đây là quyết định sáng suốt, nếu cố tấn công, khả năng sẽ bị Mao Hải Phong đang trong cơn điên diệt sạch.
Người Tây Ban Nha quyết định bao vây đợi lương thảo của Mao Hải Phong cạn kiệt.
Trong ba tháng vây khốn, tất nhiên không thiếu va chạm kịch liệt, Mao Hải Phong vì muốn rửa sạch xỉ nhục, vì thế luôn chỉ huy tuyến đầu, làm sĩ khí cao vời, không chỉ giữ được cứ điểm, còn tạo thành cho đối phương tổn thất không nhỏ.
Nhưng người Tây Ban Nha chiếm ưu thế tiếp tế, Mao Hải Phong thì bị vây kín, lương thảo cạn dần.
Làm người ta ngạc nhiên là viện quân của Vương Trực chỉ xuất hiện ngoài đảo Lữ Tống, lấy lý do hải quân đối phương hùng mạnh không tới gần được, rồi trở về.
Lâm Phượng tuy có thù với Mao Hải Phong, nhưng không thể khoanh tay ngồi nhìn đồng bạo bị dị tộc tiêu diệt, nhiều lần xin tới giải vây nhưng bị cự tuyệt. Lý do là... Thời cơ chưa tới.
Lâm Phượng chỉ biết buồn bực đứng ngóng bên biển, khi hắn sắp thành đá vọng phu thì tổng tài đại nhân hạ lệnh xuất phát, lúc này đã là tháng 6 rồi.
Hạm đội xuất phát được hai ngày thì gặp một cơn bảo bất ngờ, tuy bằng kinh nghiệm và tri thức của Lâm Phượng, hạm đội vượt qua tai kiếp, nhưng tổn thất 200 người, tới ngoại vi cảng Mã Ni Lạp muộn hơn một ngày theo kế hoạch.
Kế hoạch ban đầu phải bỏ, Lâm Phượng bản tinh cẩn thận, quyết định thăm dò trước, chỉ huy hạm đội ẩn mình trong hòn đảo hình trăng non (Tân Nguyệt), đồng thời phái thuyền nhỏ nhân bóng đêm lên bờ bắt nối với người liên lạc.
Ngày hôm sau tin tức truyền về, người chuẩn bị tạo hỗn loạn của công ti, quả nhiên bị người Tây Ban Nha bắt, làm nội địa tăng cường cảnh giác.
Nội ứng ngoại hợp không được nữa, Lâm Phượng đang đau đầu suy nghĩ thì tình hình trở nên đơn giản... Một chiếc thuyền vận lương của người Tây Ban Nha cho cảng Đại Mạo vì lọt nước nên khẩn cấp rời khỏi tuyến đường, hướng về đảo Tân Nguyệt.
Kết quả Lâm Phượng sai chiến hạm bao vây, trên thuyền có 25 binh sĩ Tây Ban Nha, Lâm Phượng chỉ giữ lại một người moi tin, còn giết hết, lấy sạch vật tư.
Cùng lắm một ngày sau, chủ lực Tây Ban Nha sẽ phát hiện lương thuyền mất tích, nếu chỉ huy của nó đủ cẩn thận, nhất định quay về chi viện căn cứ, nói cách khác Lâm Phượng tối đa chỉ có một ngày rưỡi.
Cần quyết định ngay, hạm đội của Lâm Phượng tiến thẳng vào cảng Mã Ni Lạp, lợi dụng bóng đêm viên tướng quân kia tranh thủ thời gian chọn đội đột kích, lập tức đổ bộ kéo thẳng tới Ma Ni Lạp.
Đội đột kích có bốn trăm người, 200 là hỏa thương thủ, 200 là lính đánh thuê Nhật Bản.
Bên trong Nhật Bản nội chiến càng lúc càng dữ dội, vô số võ sĩ và binh sĩ chạy khỏ đất nước, nhưng lúc này chẳng thể làm được giặc Oa nữa, may là tính tổ chức kỷ luật của bọn họ hoàn mỹ, nên được hải thương ưa chuộng, chẳng lo không kiếm được miếng ăn.
Lần này Lâm Phượng mang theo 2000 người thì đã có trên 500 người là người Nhật, hơn 300 người An Nam, người Đại Minh chỉ có một nửa.
Nhân viên hỗn tạp, không có nghĩâ là bọn họ vô tổ chức vô kỷ luật, dưới huấn luyện nghiêm khắc và điều kiện ưu đãi của Cty Nam Dương, chỉ cần không phải là người Ấn Độ và người Lữ Tống hết thuốc chữa, tất cả đều có thể thành viên hợp cách của đội quân đa quốc gia này.
Nghĩ tới đây Lâm Phượng nhìn đại hán cao lớn đen đúa, nghe nói tất cả những người kia do hắn huấn luyện ra, đúng là nhìn người không thể nhìn tướng mạo.
Có điều hắn thần thần bí bí, Lâm Phượng hỏi tên là gì, hắn đáp:
- Tên trước kia quên rồi, gọi ta là Lão Hắc đi.
Ngay cả tên cũng không chịu tiết lộ, xem ra Cty Nam Dương này chứa rất nhiều bí mật.
Đem đó không trăng không sao, 400 người của đội cảm tử, được sự suất lĩnh của võ sĩ tên Tiểu Dã Thủy Vương, ngồi thuyền nhỏ xuất phát.
Lâm Phượng cùng Lão Hắc đứng trên boong thuyền, nhìn đội cảm tử biến mất trong tầm mắt nói:
- Cảm giác từ khi Mao Hải Phong tới Lữ Tống, vận may không còn nằm bên chúng ta, làm việc gì cũng xui xẻo, đúng là tà...
Đêm nay nếu chẳng phải đột nhiên có gió lớn, trực tiếp dẫn đại quân tới Mã Ni Lạp là thắng chắc, đâu cần tốn công thế này.
Lão Hắc rất tán đồng, nhưng mặt chẳng có chút biểu cảm nào:
- Khai Dương tiên sinh có nói cho ngươi ý nghĩa của chiến dịch này chưa?
Lâm Phượng gật đầu, mặt lộ vẻ nghiêm túc:
- Chiến dịch này sẽ quyết định ai là chủ nhân chân chính của Nam Dương, nếu như chúng ta không đánh bại được người Tây Ban Nha, sẽ để bọn chúng có bàn đạp tấn công Châu Á, thậm chí uy hiếp tới Đại Minh
- Đúng thế.
Lão Hắc gật đầu:
- Cho nên bất kể hi sinh bảo nhiêu cũng phải bảo đảm thắng lợi.
Trong cuồng phong, đội cảm tử phải tới ngày hôm sau mới đổ bộ được lên bờ, hỏi người dẫn đường, không ngờ lệch khỏi Mã Ni Lạp (manila) mười mấy dặm, liền vội vàng chạy tới thành Mã Ni Lạp.
Một số người đương địa phát hiện ra họ, chẳng những không kinh hoàng, còn gia nhập dẫn đường. Nghe nói cái chết của Cổ Tô Lai Mạn đã khiến người đương địa triệt để thù hận người Tây Ban Nha, xem ra không phải là giả.
Nửa canh giờ sau, đội cảm tử cuối cùng nhìn thấy thành Mã Ni Lạp đằng xa, Tiểu Dã Thủy Vương vốn định hạ lệnh tấn công, nhưng người đương địa cho biết, biệt t hự của tổng quan thủ quân Qua Y Đặc ở ngay bên đường, liền lập tức thay đổi chủ ý, chuyển sang tấn công tòa biệt thự đó.
----- oo0oo-----
Chương 799: Nhân nhân tự nguy.Chiến đấu ngắn ngủi mà kịch liệt, đội cảm tử sau khi hi sinh tám mạng, đánh vào tòa biệt thự do mười mấy người bảo vệ, giết hết tất cả người trong biệt thự, Qua Y Đặc không ngờ lại ở nhà, đang ăn mặc chỉnh tề chuẩn bị đi làm, thì bị bắn chết.
Nhưng trận đánh bừa bãi này làm bọn họ mất đi tính bất ngờ, người Tây Ban Nha trong thành lập tức cầm súng đạn gia nhập chiến đấu.
Không thể không bội phục tính cảnh giác và tố chất huấn luyện của người Tây Ban Nha, lợi dụng thời gian đó, bọn chúng thiết lập phục kích trên đường. Khi Tiểu Dã dẫn đội cảm tử tới, bị mưa đạn dồn dập giết chết hơn 80 người.
Lúc này đội cảm tử cách hạm đội quá xa, tăng viện và tiếp tế đều khó khăn, không thể giành thắng lợi nữa, Tiểu Dã đành hạ lệnh rút binh. Khi lui tới tòa biệt thự còn đang bốc cháy kia, hắn tát cho mình một phát:
- Đúng là đồ con heo.
Hoàng hôn, đội cảm tử hao binh tổn tướng trở về, Tiểu Dã muốn mổ bụng tạ tội, Lão Hắc đá hắn ngã lăn ra đất:
- Ghét nhất đám người như các ngươi, hơi chút là mổ bụng.
- Đúng thế, nhảy luôn xuống biển cho đỡ làm bẩn boong thuyền.
Lâm Phượng phụ họa.
-...
Tiểu Dã Thủy Vương tức thiếu điều hộc máu.
- Tranh thủ thời gian đi nghỉ đi, lần sau không được thất bại.
Lão Hắc nói.
- Hây.
Tiểu Dã gật đầu, thầm nghĩ:" Đang đợi câu này đấy."
Tiểu Dã lui rồi, Lâm Phượng nói:
- Cần hạ ngay Mã Ni Lạp, nếu không người Tây Ban Nha ở tiền tuyến lui về tiếp viện thì tình hình sẽ rất phức tạp.
- Ừm.
Lão Hắc gật đầu:
- Người Tây Ban Nha đúng là lợi hại, đội cảm tử đều nói, không phải là đối thủ của chúng.
- Đúng, sức chiến đấu và tố dưỡng của chúng đều hơn hẳn ta.
- Vậy lấy thịt đè người, mai ta đích thân dẫn đội.
Lão Hắc nghiến răng nói.
- Không được, quá nguy hiểm.
- Kệ, mai nếu không hạ được Mã Ni Lạp, ta không trở về nữa.
Tổng kết chiến đấu ngày hôm qua, Lâm Phượng cho rằng, chỗ hạm đội neo đậu quá xa, không thể tăng viện hiệu quả cho bộ đội công kích, vì thế hạ lệnh tiến vào cửa cảng Mã Ni Lạp, Lão Hắc dẫn đại quân lên bờ đánh tiên phong.
Được chuyện hôm qua cổ vũ, thanh niên người Hoa ở Mã Ni Lạp bất chấp nguy hiểm, xuyên qua đường phố, đốt cháy từng tòa nhà do người Tây Ban Nha xây dựng, lửa cháy khắp nơi, bao phủ tòa thành mỹ lệ.
Người Tây Ban Nha chui hết vào công sự của phủ tổng đốc, còn gia cố bốn xung quanh, kéo đại pháo vốn bảo vệ thành vào trong công sự, nữ nhân chăm sóc thương binh, trẻ con chuyển đạn dược, chuẩn bị đâu ra đó.
Bên trên chòi quan sát của công sự, Lê Nha nhìn lửa cháy khắp nơi, khuôn mặt vốn tràn trề tự tin mang đầy lo lắng và bất an. Hắn không chỉ lo lắng vì nguy cơ trước mắt, mà lo cho kế hoạch của đế quốc ở Châu Á.
Sau khi thuận lợi tới đảo Lữ Tống, dễ dàng đánh bại vũ trang đương địa, hắn thành danh nhân mới của đế quốc, thậm chí có cơ hội nhận thư của hoàng đế, được biểu dương tinh thần mạo hiểm và năng lực trác việt.
Lê Nha đầu óc mê muội vì vinh quang, trong thư trà lời mạnh miệng nói:" Trung Quốc là nơi giàu có nhân khẩu đông đúc, nếu bệ hạ muốn, chúng thần trong vòng vài năm có thể chinh phục nơi này."
Sau đó triển khai điều tra, cuối năm ngoái đem bản đồ Trung Quốc, Nhật Bản cùng kế hoạch đầy dã tâm gửi cho Phillip đệ nhị, hi vọng được phê chuẩn xâm chiếm Trung Quốc.
Nhưng hắn không ngờ kế hoạch của mình còn chưa tới chỗ hoàng đế, thì nguy cơ đã đến, chính là tình thế hiện nay hắn đang đối diện.
Nhìn quân tăng viện của đối phương tới, còn dùng chiến thuật cực cao minh, lòng hắng đầy sợ hãi. Lê Nha biết nếu cuộc chiến này thất bại, đám xâm lược không được lòng người bọn chúng sẽ mất cả quần đảo Lữ Tống, kế hoạch vĩ đại chinh phục Trung Quốc sẽ thành bong bóng..
- Phải trụ vững.
Lê Nha dập tắt thuốc lá, lớn tiếng gọi thuộc hạ, đem quyết tâm của mình truyền cho bọn chúng.
Nhưng tên nào tên nấy mặt mày nặng nề, vì người Tây Ban Nha gặp phải đối thủ mạnh nhất từ khi kiến lập chế độ thực dân toàn cầu cho tới nay.
Nhân số bọn chúng lại quá ít, vì chiến sự bên kia đã tới hồi quan trọng, quan binh để lại ở Mã Ni Lạp chưa tới 100, may là trong đêm, một tiểu đội ở đảo phụ cận về tăng viện, khiến trong công sự có chừng 150 người.
Kỳ thực còn có hơn 1000 quân chư hầu, nhưng đám người đó đi theo cướp bóc đốt phá còn được, gặp phải đối thủ mạnh, có khi còn đâm lén sau lưng. Không sợ kẻ địch mạnh chỉ sợ đồng đội hèn như lợn, cho nên quan chỉ huy an bài bọn chúng ngoài công sự, phụ trách phòng tuyến ngoại vi.
Quả nhiên lửa vừa bốc lên, đám quân chư hầu tan sạch, đợi khi đám hải tặc Trung Quốc xông vào thì giữa phủ tổng đốc và công sự đã trông huơ trống hoắc rồi.
Không gặp phải phản kháng như dự liệu phe tấn công kinh ngạc, sợ đối phương có mưu mô, nên dừng bước, quan sát công sự.
Nhưng mau chóng phát hiện ra không hề có mai phục, Lão Hắc hạ lệnh tấn công công sự.
Một người mặc áo rộng thùng thình như áo ngủ, chân đi guốc gỗ, lộ ra cái chân đầ lông, đó là Tiểu Dã Thủy Vương các hạ, hắn xuất hiện trước đội ngũ, rút đao võ sĩ sáng loáng ra, quát:
- Giết giết giết.
Rồi dẫn hơn 100 người Nhật Bản xông lên.
Khi bọn họ hò hét chạy được nửa đường một loạt súng vang lên, 2,3 chục người hàng đầu ngã gục, nhưng số còn lại không hề vì thế mà tan rã, tiếp tục xông tới.
Đằng sau, Lão Hắc hạ lệnh hỏa thương thủ khai hỏa áp chế hỏa lực của công sự.
Tức thì tiếng súng tiếng hò hét vang lên khắp nơi.
Phải nói người Nhật Bản rất anh dũng, Tiểu Dã dẫn thuộc hạ chạy tới dưới công sự, nếu chẳng phải người Tây Ban Nha dùng dầu sôi phục vụ, thì chỉ đợt tấn công này đã có thể đánh lên.
Có điều hiện thực không có nếu, Tiểu Dã mất tới bảy tám chục tên thuộc hạ, liền rút lui.
Lão Hắc cũng nóng ruột, hai lần tổ chức tấn công đều thất bại, tử thương nặng nề.
Tới trưa Lâm Phượng vận chuyển đại pháo tới, oanh kích công sự, đối phương bắn trả, hơn nửa trình độ cao xiêu hơn, nửa tiếng đấu pháo, chẳng những không làm được gì, còn bị người ba bắn hỏng ba khẩu Tướng Quân pháo.
Lão Hắc nóng thật rồi, đang muốn đích thân dẫn quân phát động tổng tấn công thì đại biểu chi nhanh Cty Nam Dương ở Lữ Tống xuất hiện, mang cho hắn 40 cỗ xe bọc giáp... đó là do người Hoa đương địa lấy chăn bông dầy thấm ướt phủ lên xe đẩy, có thể cung cấp phòng ngự di động hữu hiệu cho họ.
Lão Hắc lập tức tổ chức đội cảm tử, đẩy xe bọc "giáp" tiến lên, lần này hiệu quả tốt hơn nhiều, súng đạn người Tây Ban Nha không thể làm tổn hại tới tướng sĩ nấp sau lớp chăn đệm ướt, trơ mắt nhìn họ ngày một tới gần.
Lão Hắc thấy vậy mừng rỡ, dùng hết xe bọc giá, lưu lại 200 người làm đội dự bị, tất cả tấn công mãnh liệt.
Cùng lúc này, trên biển cũng nổ ra kịch chiến, thì ra Tát Nhĩ Tây Đa chỉ huy tiền tuyến là một người cẩn thận, đêm hôm đó không thấy thuyền lương tới nơi, sáng hôm sau liền dẫn 3 chiếc hạm chủ lực, cùng một nửa đội viên lục chiến quay vệ Mã Ni Lạp xem tình hình.
Ba chiến chủ hạm nửa đường gặp thuyền cầu viện, quan chỉ huy lập tức quyết định phát động tập kích hạm địch. Nhưng Lâm Phượng đã nghiêm trận đợi sẵn, quân địch vừa tới liền dùng đại pháo tiếp đón.
Hải quân Tây Ban Nha vô địch thiên hạ đương nhiên không phải chỉ có hư danh, bọn chúng bắn một loạt pháo, lập tức xoay mạn thuyền tiếp tục loạt pháo thứ hai, đây là chiến thuật Đơn Tuyến Kích mà bọn chúng luôn kiêu ngạo.
Nhưng làm bọn chúng kinh ngạc là đối phương cũng ám hiểu chiến thuật tương tự, cũng dàng hàng một, trách tiếp xúc cự ly gần, chỉ dùng mạn sườn nổ pháo, dưới sự suất lĩnh ra sức tiến lên chiếm lấy hướng gió.
Người Tây Ban Nha tất nhiên không thể để đối phương thực hiện kế hoạch, ý đồ chiếm lại chỗ thuận gió. Vì thế hai bai thủy chung giữ khoảng cách quay vòng một chỗ, dùng hỏa pháo mãnh liệt bắn nhau.
Mặc dù cả hai bên đều là đại hạm hai tầng, hơn nữa trang bị mấy chục khẩu đại pháo làm uy lực tăng gấp bội, nhưng chỉ dựa vào pháo đạn là khó đánh chìm được đối phương.
Cho dù bị chủ pháo 30 cân bắn trúng cũng chỉ tạo thành lỗ đạn không lớn, sau đó xuyên vào phát nổ làm gỗ vụn bắn ra khiến nhân viên bị thương, còn kết cấu chỉnh thể không tổn hại lắm.
Thế nhưng thuyền viên hai bên đều qua huấn luyện nghiêm khắc, cơ bản không để xảy ra loại tai nạn này.
Kết quả hai bên quần nhau tới khi tối đien chẳng có một chiến hạm nào chìm, đành tạm thời lui binh, mai tái chiến.
Thế nhưng trên lục địa kịch chiến đang hăng, công sự của người Tây Ban Nha cực kỳ kiên cố, đám Lão Hắc thiếu vũ khí công thành, chỉ lởn vởn phía dưới, tử thương thảm trọng.
Lúc nên bên trên có người xì xà xì xồ nói vọng xuống.
Lão Hắc hỏi thông dịch, thông dịch đáp:
- Người Tây Ban Nha nói trời tối rồi, chúng ta rút quân mai đành tiếp.
Lão Hắc trợn mắt:
- Dựa vào cái gì mà chúng định đoạt được?
Thông dịch nói:
- Đó là quy củ đánh trận bên phía bọn họ, gọi là tinh thần kỵ sĩ cao quý.
Lão Hắc nhổ phẹt bãi nước bọt:
- Cao quý con mẹ nó, cướp bóc khắp thế giới là sự cao quý của bọn chúng?
- Chúng ta trả lời ra sao đây?
-...
Lão Hắc đảo mắt một vòng, gọi Tiểu Dã tới thì thầm vài câu, ai ngờ Tiểu Dã lắc đầu:
- Không được, đánh lén không hợp tinh thần võ sĩ.
- Mẹ nó chứ, lại nhảy ra thêm cái tinh thần võ sĩ.
Lão Hắc đau cả đầu:
- Ngươi bây giờ không phải là võ sĩ mà là lãng nhân, lãng nhân hiểu chưa hả?
Người Trung Quốc đánh trận không dùng kế, Tôn Vũ, Gia Cát Lượng sẽ nhảy ra khỏi quan tài, vả gẫy răng ngươi … đó là tinh người Trung Quốc.
Vì thế Lão Hắc sai người trả lời đồng ý đình chiến, kết quả bên kia không bắn nữa, nhưng chúng không phải là trẻ con, vẫn chĩa nòng súng về phía đối phương, sẵn sàng bóp cò bất kỳ lúc nào.
Nhưng quân Minh nhìn như lui thật, dùng xe bọc giáp yểm hộ, chầm chậm lui về, để lại một đống thi thể, có lẽ là vì sợ, có lẽ trong đống người chết có thân nhân, quân Minh vừa lui vừa khóc rống lên.
Người Tây Ban Nha nghe tiếng khóc xé lòng không kìm nổi bi thương, từ khi xuất chiến thực dân tới nay, bọn chúng chưa bao giờ đánh trận thảm đến thế, chẳng biết còn cầm cự nổi mấy ngày.
Thượng đế ơi, phù hộ chúng con mau chóng thoát khỏi địa ngục này.
Có lẽ đúng lúc thượng đế đang rảnh, thỉnh cầu của bọn chúng lập tức có hiệu quả, có bóng đen từ dưới thành lao lên, tiễn một binh sĩ về Tây Thiên.
- Địch tập kích.
Tiếng hét thẻm thiết vang lên, mặc dù người Tây Ban Nha lập tức đâm kiếm tới cứu, nhưng người đó võ nghệ cao siêu, trường đao múa loang loáng, đằng sau lưng hắn, bóng đen liên tiếp bò lên, vung trường đao tham gia cuộc chiến, công sự hỗn loạn.
Quân Minh phía dưới không khóc nữa, quay đầu lào trào lên như thủy triều.
Thắng thua đã định, Lão Hắc thở phào, thì ra hắn bảo Tiểu Dã Thủy Vương và thủ hạ giả vờ làm người chết, sau đó cố ý khóc lóc thu hút sự chú ý cho đám Tiểu Dã bỏ lên, nhân lúc kẻ địch không kịp ứng phó, chiếm công sự thành công.
Người Tây Ban Nha rất dứt khoát, biết thua chắc liền giương cờ trắng đầu hàng.
Lão Hắc bảo bọn chúng nộp vũ khi bò từ bên trong ra, hỏi ai là kẻ cầm đầu.
Lê Nha cánh tay bị thương, đeo lủng lẳng trước ngực đứng ra:
- Ta là trưởng quan tối cao nơi này, tổng đốc Phỉ Luật Tân Lê Nha Thực Bỉ.
Không ngờ là tiếng Hán.
- Ngươi nên mổ bụng.
Tiểu Dã lập công dương dương đắc ý nói.
- Qua một bên chơi, trước kia sao ngươi không mổ bụng.
Lão Hắc trừng mắt lên, nếu không chiến bại Tiểu Dã chắc đang là tiểu bá vương ở Nhật Bản, sao có thể tới đây kiếm tiền.
Tiểu Dã lập tức tịt ngòi, đó là nỗi đau suốt đời của hắn.
Sáng hôm sau, người Tây Ban Nha trên biển vừa muốn khai chiến thì Lâm Phượng phái người đưa tới một tên tù binh, nói tin Lê Nha bị bắt cho chúng.
Xác nhận tin dữ xong, ba chiếc chiến hạm lập tức rời khỏi chiến trường tới cảng Đại Mạo, Tất Nhĩ Tây Đa nhận được báo cáo, biết không thể chậm trễ vội rút quân ngay trong đêm, lui về căn cứ ở Vụ Túc.
Mặc dù chủ lực vẫn còn, với cả căn cứ Vụ Túc, nhưng không tiêu diệt được "hải tặc", lại mất Mã Ni Lạp, Lê Nha bị bắt, đó là đả kích trí mạng với người Tây Ban Nha.
Người đương địa vốn khuất phục cũng bắt đầu trở nên không an phận, sảng sàng nội ứng ngoại hợp với hải tặc, đuổi bọn chúng ra hẳn khỏi Lữ Tống.
Nghiêm trọng hơn nữa, đây là thất bại lớn nhất khi đế quốc Tây Ban Nha khuyếch trương toàn cầu, làm sự tự tin của binh sĩ Tây Ban Nha không gượng dậy nổi, e kẻ địch chưa tới, đơn vị bộ đội này đã tan rã.
Lúc này cao tầng viễn chinh cũng xuất hiện chia rẽ nghiêm trọng, có người nói, nên cố thủ đợi tăng viện, có người muốn rút về Mexico, nhưng bất kể phái nào cũng mất dũng khí chiến đấu.
Lúc Tát Nhĩ Tây Đa đang đau đầu thì "hải tặc Trung Quốc" phái thông dịch tới, nói:" Nơi này không phải sở hữu của ngươi, là phiên quốc của Đại Minh thiên triều, ngươi xâm lược vùng này, sát hạt phiên vương, tội trạng chấn động thiên triều. Nếu ngươi rút khỏi Lữ Tống, vĩnh viễn thề không quay lại nữa, ta thả tổng đốc Lê Nha và số tù binh." Cuối cùng nghiêm khắc cảnh cáo:" Nếu còn không chịu tỉnh ngộ, đến khi thuyền hủy thành phá, hối hận sẽ không kịp."
Tát Nhĩ Tây Đa vội triệu tập quý tộc và quan quân thảo luận cách ứng phó, nhất trí cho rằng, "nếu tiếp tục chiến đấu vạn mệnh đáng sợ sẽ bổ xuống đầu mỗi người. Hơn nữa tổng đốc đại nhân và quốc dân tính mạng cao quý, không thể vì cơn giận nhất thời, bất chấp an nguy của họ."
Kỳ thực đó là cách nói đường hoàng thôi, bọn chúng muốn Lê Nha về gánh trách nhiệm, như thế bản thân không sao nữa.
Mặc dù Tát Nhĩ Tây Đa còn muốn chiến đấu, nhưng không thể làm trái quyết định tập thể, vì thế tìm thông dịch, trả lời đám hải tặc, đồng ý điều kiện đình chiến. Còn uy hiếp không được tiêu diệt thương thuyền Tây Ban Nha, nếu không sẽ dẫn đại quân tới tiêu diệt hết.
Nhưng thông dịch không dám nói thẳng, liền sửa lại văn tựu thành những lại hạ mình như "nguyện bãi binh quy hàng, quỳ gối xin về nước", dù sao đám quỷ tây không biết chữ Hán.
Tháng 7, dưới sự giám thị của 8 chiếc chiến hạm Đại Minh, người Tây Ban Nha rao tất cả thành bảo, vật tư, tiếp nhận lấy tu binh cùng gia quyến, nô bộc hơn nghìn người, ngòi 5 chiếc thuyền rời khỏi đảo Lữ Tống.
Ký thực còn đám quân chư hầu và nô lệ, nhưng những người này dễ mang bệnh truyền nhiễm, lại không đủ thuyền, nên bỏ chúng lại Lữ Tống.
Nhìn bóng thuyền rời đi, Lâm Phượng khó hiểu nói với nho sinh trung niên:
- Sư phụ, làm thế quá dễ dàng cho chúng.
- Đúng thế.
Nho sinh đó là Trịnh Nhược Tằng, ảm đạm nói:
- Hiện giờ chúng ta tuy thắng, nhưng với đế quốc Tây Ban Nha chỉ như con trâu mất một sợi lông, chúng ta nếu làm quá tuyệt tình, người Tây Ban Nha dốc sức báo thù, chúng ta sẽ bại chắc. Hơn nữa trận đánh này kéo dài quá lâu, còn đánh nữa sẽ rắc rối.
Lâm Phượng là người thông minh, lại học qua chính trị, đương nhiên hiểu, vỗ mạnh lên lan can:
- Nói cho cùng là bọn họ có đế quốc hùng mạnh sau lưng, còn chúng ta phải đề phòng triều đình đâm sau lưng.
- Đúng thế, thắng bại quyết định ở trên triều, nếu không có triều đình ủng hộ, chúng ta chỉ oai phong nhất thời, không thể lâu dài được.
- Làm sao mới có được sự ủng hộ của triều đình, nói không chừng trong mắt họ, chúng ta chẳng khác gì thảo dân.
Lâm Phượng cằn nhằn.
- Không cần thăm dò ta.
Trịnh Nhược Tằng tựa cười tựa không nói:
- Cái gì không nên nói, ta không nói một câu.
- Vậy thì thôi.
Lâm Phượng có chút tức giận:
- Suốt ngày thần thần bí bí, làm người ta không an tâm.
- Ta chỉ có thể nói với ngươi, hoàn cảnh chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn, có lẽ mười, thậm chí năm năm nữa, thái độ triều đình sẽ có chuyển biến lớn, đó là lúc chúc ta thi triển hoài bão.
- Thật sao?
Lâm Phượng phấn chấn:
- Sư phụ không lừa học sinh chứ?
- Lừa ngươi làm gì?
Trịnh Nhược Tằng nghiêm mặt nói:
- Nhưng cần chúng ta đồng tâm hiệp lực, chúng ta làm đúng mệnh lệnh, không được gây thêm loạn cho bên trên.
- Vâng.
- Tổng đốc, tay ngài có khả năng không giữ được nữa, đã nhiễm trùng mất rồi.
Y sinh khám xong vết thương cho Lê Nha, lo lắng nói:
- May là tay trái, nếu không ta bị giáo hội thiêu chết mất.
Lê Nha còn an ủi bản thân, có thể thấy thần kinh vững thế nào, kỳ thực loại người như hắn, bất kể có bao nhiêu hào quang trên người, bản chất vẫn là nhà mạo hiểm coi thường sinh tử, lần này nhặt được lại mạng sống là đã hài lòng lắm rồi:
- An bài phẫu thuận đi.
- Vâng.
Y sinh mặt đầy vẻ sung kính.
- Cảm tạ ông còn quan tâm tới mạng sống của tôi.
Lê Nha giơ lý rượu lên mời Nhĩ Tây Đa.
- Tôi từng thề trung thành với ngài, lần này trách nhiệm hãy do tôi gánh.
Tát Nhĩ Tây Đa cúi mình xuống.
- Không.
Lê Nha lắc đầu:
- Tôi là tổng đốc, tôi sẽ về nước thỉnh tội với bệ hạ... Đồng thời du thuyết mang một đơn vị quân đội viễn chinh hùng mạnh quay lại.
- Nhưng.. Tôi đã ký hiệp ước với bọn họ.
- Ông không phải tổng đốc, không có quyền.
Lê Nha quịt nợ một cách đường hoàng:
- Hùng tâm chinh phục Châu Á của đế quốc không thể tắt, tuyến đường Nam Thái Bình Dương này không thể để kẻ khác khống chế.
- Ngài chắc mấy phần.
- Tôn nghiêm của đế quốc không thể chấp nhận thất bại này, hùng tâm của bệ hạ càng không thể cho mất đi bàn đạp tiến vào Châu Á.. Lữ Tống, nhất định phải đoạt lại.
Quyết tâm của Lê Nha không hề dao động.
~~~~~~~~~~~~~~~
Khi tin tức thu phục Lữ Tống truyền tới Bắc Kinh thì đã là trung thu.
Tảng đá lớn trong lòng Thẩm Mặc được bỏ xuống, nhưng y chỉ vui mừng trong chốc lát, vì y biết người Tây Ban Nha nhất định sẽ trở lại... Chỉ sớm hay muộn mà thôi.
Thẩm Mặc cần cuộc đại chiến này nổ ra muộn hơn, vì y cần thời gian nắm lấy quyền lực, chỉ có quyền quyết sách mới có thể khiến các dũng sĩ trên hải dương không còn cô độc nữa.
Đánh bại một đế quốc chỉ có thể là một đế quốc khác, nhưng Đại Minh có thể điều chỉnh tới mức nào?
Nghĩ tới vũng bùn đấu tranh càng lúc càng lún sâu, tâm tình Thẩm Mặc trùng xuống.
Sau khi Cao Củng đi, ngôn quan chĩa thẳng mũi giáo vào Quách Phác, đàn hặc ông ta "đức hạnh không đủ, thích nịnh bợ, không xứng làm các thần", Long Khánh không chịu phế truất một đại thần nữa, dùng ngôn ngữ cứng rắn cự tuyệt, cảnh cáo bọn chúng không được đuổi cùng giết tận.
Nhưng quyền uy một khi đã mất, phải dùng uy lực gấp mười mới lấy lại được, Long Khánh không có cái bá khí đó, nên ngôn quan không sợ, còn vắt óc tìm đủ mọi tội trạng công kích Quách Phác.
Quách Phác là quan thanh liêm, xử sự công chính, là người nhân hậu, khác hẳn với Cao Củng, có mối quan hệ rất tốt.
Đại thần trong triều đều biết, những tội trạng thêu dệt kia đều là giả, tội thực sự của Quách Phác là không chịu a dua theo Từ Giai, là chiến hữu của Cao Củng.
Đám ngôn quan thì cho rằng, trong nội các tồn tại một tập đoàn âm mưu, luôn tìm cách phản đối Từ các lão, muốn gây bất lợi cho ngôn quan.
Hiện giờ Cao Củng đã cuốn xéo, ông còn ở đây làm gì?
Cho nên đám ngôn quan quyết không đạt được mục đích không thôi.
Nhưng có không ít phái trung lập, thậm chí bản thân đại thần cốt cán của Từ đảng cũng tìm cơ hội cầu xin với Từ Giai. Điều này làm Từ Giai bất ngờ, càng bất ngờ hơn nữa, ông ta không khống chế nổi đám ngôn quan nữa rồi.
Từ trước tới nay, vì tị hiềm, Từ Giai rất ít tiếp xúc trực tiếp với ngôn quan, đa phần mệnh lệnh thông qua Trương Cư Chính, sau đó do mấy tên cốt cán đi kích động kẻ khác, chiêu này dùng lần nào chuẩn lần đó.
Song tác dụng phụ cũng dần thể hiện ra, phương pháp này có sức khống chế quá yếu, đám ngôn quan thấy người khác nổi danh, không cần ai chỉ thị, cũng chủ động chạy khắp nơi cắn người. Lại nhìn thấy kẻ đàn hặc trước bình an, càng trở nên ngông cuồng, bịa đặt đủ chuyện, vượt quá mọi giới hạn.
Từ Giai không thể tát vào mặt mình cấm chỉ ngôn quan đàn hặc Quách Phác, huống hồ ông ta không muốn nhìn cái mặt Quách Phác nữa.
Cứ thế giằng co cho tới tháng này, đám ngôn quan vứt bỏ hết thể diện, dâng thư nói ông ta trước kia tang cha dùng đoạt tình ra nhậm chức, thiếu hiếu đạo bị người đời kinh bỉ. Hại nói mẹ ông ta tuổi già nhiều bệnh, không chịu về phụng dưỡng, xói mòn nhân phẩm, làm người ta nhục thay.
Lời ác độc tới mức không tưởng tượng nổi, thiếu điều nói thẳng, ông xéo đi, bọn ta không muốn nhìn thấy ông nữa.
Quách Phác sớm đã không chịu nổi, nhưng hoàng đế không phê duyệt cho từ chức. Giờ người ta lấy hiếu đạo ra vấy bẩn, Quách Phác quỳ luôn ngoài cung Càn Thanh xin cho về quê.
Hoàng đế thấy ông ta đã quyết, triệu kiến tới hỏi:
- Trong cố mệnh đại thần, Cao khanh đã bỏ trẫm mà đi, chẳng lẽ khanh cũng vì lời nói đó bỏ trẫm nữa sao?
- Lời người như đao.
Quách Phác khóc nói:
- Thanh danh thần đã mất hết, dù thần có mặt dày ở lại, nhưng trong triều còn chỗ đứng cho thần nữa sao.
- Trẫm tin khanh mà.
- Nhưng bệ hạ không chặn được miệng chúng.
Lời này của Quách Phác thẳng thắn lắm rồi.
Con người trưởng thành trong nghịch cảnh, Long Khánh sáng suốt hơn trước kia nhiều, ít nhất cũng nghe ra ý ngầm trong lời ông ta.
Im lặng hồi lâu, Long Khánh ảm đạm nói:
- Biết làm sao...
Kỳ thực Long Khánh đã sớm không nhịn nổi nữa, tháng trước hắn hạ chỉ cho nội các tiến hành khảo sát khoa đạo. Kinh sát mới qua nửa năm, hiển nhiên hoàng đế muốn khai đao với ngôn quan rồi.
Nhưng Từ Giai vì muốn bảo vệ ngôn quan, cho rằng "không hợp quy củ, có hiềm nghi đả kích ngôn luận" can gián hoàng đế.
Biết làm sao, biết làm sao đó là lời thổ lộ buồn bực trong lòng vị hoàng đế trẻ.
Không còn cách nào, Long Khánh phê chuẩn cho Quách các lão từ chức...
Khi Quách Phác đi, học sinh đều đến tiễn, thậm chí lão thần như Cát Thủ Lễ, Chu Hành đều có mặt khác biệt hoàn toàn với cảnh lẻ loi của Cao Củng, e rằng không thể dùng đối nhân xử thế chênh lệnh mà giải thích.
Quách Phác đi, Thẩm Mặc không tới tiễn, ông ta không cho y tới, vì cải cách binh bộ đang tới lúc mẫu chốt, ông ta lo sinh ra rắc rối không cần thiết cho y.
Thẩm Mặc hết sức cảm kích Quách Phác, nếu chẳng phải ông ta lợi dụng sức ảnh hưởng của mình ở binh bộ, trấn áp đám phản kháng, e rằng Thẩm Mặc chỉnh đốn chẳng được thuận lợi như bây giờ.
Chỉ ba tháng, y làm binh bộ đổi phe.
Vừa mới tới, y liền điều tra lang trung võ khố ti, tra ra gần trăm vạn tài sản.
Tiếp đó lần theo dấu vết, truy tới Xa giá ti, lang trung Xa gia ti thấy kết cục kẻ trước, chuẩn bị khai báo với khâm sai, nhưng đêm trước khi tự thú, bị phát hiện ra chết đuối trong sông hộ thành.
Cùng đêm đó lang trung võ khố ti chết trong thiên lao, kinh sư chấn động, ai cũng đoán người chết tiếp theo là lang trung nào.
Vậy nhưng ở vụ án này, Thẩm Mặc không hỏi tới nhiều, chỉ đốc thúc Thuận Thiên phủ sớm ngày phá án, sau đó vài ngày, lệnh điều động đưa xuống Vương Sùng Cố lấy hàm thượng thư làm tổng đốc tam biên; Hoắc Kỳ đổi chỗ với Đàm Luân tổng đốc Tuyên Đại.
Người không rõ nội tình nói nó cho thấy quyết tâm chỉnh đốn quân bị của triều đình, hai vị đại thị lang xuất trấn biên thùy, đây là hành động lớn chưa từng có.
Có người nói đây căn bản là trục xuất, có bọn họ nghĩ không ra, Sơn Tây bang sao lại chịu để cho người ta cắt xẻo như thế?
Sao Thẩm Mặc làm được, chuyện này phải quay lại ngày y vờ say ở phủ Định quốc công.
Ngày hôm sau Định quốc công lấy lý do sinh nhật cháu, mời hai vị quốc công khác tới phủ, đem nội dung trò chuyện với Thẩm Mặc nói ra.
Cả ba cho rằng điều kiện của Thẩm Mặc cơ bản có thể chấp nhận được, nhưng muốn huân quý giao ra ruộng đất chiếm đoạt là không thể được, tuyển người phải giữ lại một nửa.
Còn về miếng bánh ở Nam Dương, ý tứ lão gia hỏa là mấy năm đầu lấy tiền, dù sao bạc không biết lừa người. Đương nhiên cũng phải phái thân tín tới xem nơi đó thực sự có vạn khoảnh ruộng như trong lời đồng không.
Thẩm Mặc mau chóng trả lời, truân điền có thể không truy cứu, chuyện Nam Dương cũng có thể làm theo yêu cầu của họ. Nhưng sử dụng quan quân, phải xem biểu hiện của bọn họ, do tổng lý luyện binh quyết định, y không can thiệp cũng không cho ai can thiệp.
Đám huân quý biết, nếu theo xét theo năng lực thì đám quan quân nổi mấy tên lưu lại? Nhưng bọn họ nghe ngóng đươc, Thích Kế Quang không phải là khó nói lắm, tựa hồ có cửa sau để đi. Hiển nhiên thương lượng với một võ nhân dễ hơn cầu xin một đại học sĩ.
Vì thế hai bên đạt thành hiệp nghị, Tiêu Anh làm đề đốc kinh doanh, Thẩm Mặc đã có thể thẳng tay làm việc, đầu tiên xử trảm 20 tên cầm đầu tập kích Vương Quốc Quang, hơn 70 tên còn lại phân phối đi Vân Quý.
Sau đó dựa vào uy hiếp này triển khai chỉnh đốn toàn diện trong quân doanh, thi hành chính sách "chia doanh luyện binh", bổ nhiệm Thích Kế Quang làm tổng lý luyện binh, phụ trách chuyện luyện binh...
Khống chế kinh doanh xong, Thẩm Mặc bắt đầu chỉnh đốn binh bộ, y hạ ngay hai ti Võ khố, Xa giá, đem quan viên tham ô ra trừng trị trước pháp luật..
Nếu chẳng phải hai tên thị lạng bất ngờ tử vong, không biết liên lụy tới bao người, nhưng khi mọi người cho rằng y sẽ triệt để khai chiến với Sơn Tây bang, hai bên đột nhiên giảng hòa.
Điểm chuyệt ngoặt tới từ một lần đàm thoại, hai bên tham gia là Thẩm Mặc và Vương Sùng Cố.
Đúng như trước kia y nói " huynh nhất định sớm tới tìm ta" cái cảm giác bị người ta nắm trong lòng bàn tay thật khó chịu, nhưng Vương Sùng Cố biết, bản thân thực lực Thẩm Mặc đã mạnh, lại giương cờ Từ Giai.
Còn bên Tấn đảng xảy ra vấn đề, Dương Bác đóng cửa đợi tội, Vương Quốc Quang ở nhà tu dưỡng, Cát Thủ Lễ cũng góp vui, xin về nhà phụng dưỡng mẹ giả...
Trước mặt đại địch, các vị đại lão nằm xuống giả chết, Tấn quần long vô thủ, cả phản kích cũng không có người dẫn đầu.
Vương Sủng Cố ngứa mắt với Thẩm Mặc, nhưng chưa tự đại tới mức mình có thể chống lại y.
Nghiêm trọng hơn, hắn không tìm ra tung tích hai lang trung bị bắt, ngay cả giết người bịt miệng cũng không thể, thứ hai kẻ đó nắm giữ, đủ cho hắn, thậm chó cả Dương Bác cũng phải vào đại lao.
Dù vậy Dương Bác vẫn không có hành động gì, bày ra bộ dạng tiêu cực đưa cổ chịu chém.
"Thật không biết đám lão già đó nghĩ gì?" Hắn đành tới chỗ Thẩm Mặc thỉnh tội, hi vọng vờ vịt tránh được kết quả xấu nhất.
Hôm đó Thẩm Mặc ở nha môn, sai người theo dõi nhân lúc không có ai, Vương Sủng Cố liền lẻn tới, tưởng gặp phải quát tháo chửi mắng, ai ngờ Thẩm Mặc ôn hòa cùng hắn hồi tượng lại năm xưa chung vai tác chiến ở đông nam.
- Khi đó may nhờ lão ca giúp một tay, nếu không ta không thể kiếm được nhiều lương thực như vậy.
Thẩm Mặc mặt đầy cảm kích.
Nhớ lại năm tháng hào hùng, Vương Sùng Cố cảm khái vô hạn:
- Đúng vậy chớp mắt cái đã mười năm mà như mới hôm qua.
- Không biết lão ca còn mấy phần hào tình năm xưa.
Vương Sùng Cố xoa đầu, nhìn thấy trên trường treo bức tranh chữ Hành Lộ Nan là Lý Bạch, mặt đầy phức tạp, ngâm:
-
Cốc vàng, rượu trong, vạn một đấu,
Mâm ngọc, thức quý, giá mười ngàn.
Dừng chén, ném đũa, nuốt không được,
Rút kiếm nhìn quanh lòng mênh mang.
Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng,
Toan lên Thái Hàng núi tuyết phơi.
Lúc rỗi buông câu bờ khe biếc,
Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời.
Đưòng đi khó! Đường đi khó!
Nay ở đâu? Đường bao ngả?
Thẩm Mặc thấy hắn dừng lại, cười nói:
- Còn hai câu nữa mà.
- Cưỡi gió, phá sóng hẳn có ngày,
Treo thẳng buồm mây vượt biển cả!
Vương Sùng Cố cười khổ:
- Làm đâu phải dễ như nói, Giang Nam, hôm nay lão ca tới tìm đệ là muốn thẳng thắn.
Lòng thầm lo:" Đủ độ chưa nhỉ?"
Thẩm Mặc nghiêm mặt lại, nghe hắn trình bày:
- Giờ đây lão đệ đã moi cả gan ruột binh bộ ra, ta nếu không nói với đệ thì thực là trợn mắt nói dối rồi.. Mấy năm qua ta kéo bè kết phái, diệt trừ kẻ đối lập, đút lót hối lộ... Cái đầu này đủ chặt ba lần rồi.
Thẩm Mặc không lên tiếng, vì y chẳng có tư cách gì chỉ trích người khác.
- Ta luôn tự an ủi bình làm thế là vì bất đắc dĩ, ta không làm thế là khác người, sẽ bị xa lánh như Hải Thụy, ta không muốn thế. Ta cần quyền lực thực hiện... Tâm nguyện của ta.
Vương Sủng Cố cười thảm:
- Nhưng quay đầu nhìn lại, mỗi lần bất đắc dĩ đó như từng giọt mực nhỏ vào tim, từng giọt từng giọt một.. Hùng tâm, sớm đã vấy bẩn, thành hạng người năm xưa bản thân thống hận rồi.
Những lời này ít nhiều phát ra từ tận đáy lòng.
Có điều trước khi tới hắn phải nhẩm đi nhẩm lại vài lần mới nói lưu loát được như thế.
Thẩm Mặc thở dài:
- Ta há chẳng cũng thế sao...
Có vẻ như tin lời y.
- Giang Nam, lão đệ muốn xử ta đều là do reo gió gặt bão...
Đây vốn là vở kịch hắn dàn dựng trước, ai ngờ diễn đi diễn lại, thấy mình đáng chết thật.
- Ta muốn xử huynh thì đã chẳng cần lắm lời như thế.
Thẩm Mặc hai mắt quắc lên:
- Ta hỏi, tâm nguyện của huynh là gì?
- Tâm nguyện..
Vương Sùng Cố thất thần lẫm bẩm:
- Sắp quên mất rồi.
Thẩm Mặc biết hắn nói thật, vì y cũng có vấn đề tương tự.
Một lúc sau hắn mới thốt lên:
- Hà Sóc...
Đây không phải điều hắn dàn xếp trước.
Thẩm Mặc nheo mắt lại:
- Phục Sóc?
- Đúng thế, ngu huynh hơn hiền đệ 20 tuổi, người ở tuổi bọn ta có chung một tâm nguyện. Năm xưa Tằng đại soái ôm chí phục Sóc, đích thân lập kế hoạch, nhân sĩ thiên hạ không ai không chờ đợi, không ít thư sinh hận chẳng thể quẳng bút cầm lấy gươm đao.
- Nhưng về sau.. Ôi đại soái và Hạ các lão cùng gặp nạn.
Tuy chuyện đã qua bao năm, nhưng lòng Vương Sùng Cố vẫn như dao cắt:
- Tằng đại soái vì đại kế trăm năm của triều đình, không ngờ bị gian nhân hãm hại, liên lụy tới thê tử, xương cốt cũng chẳng thể đem về quê hương. Khi đó Cẩm Y vệ soát nhà, chỉ tìm được 50 lượng bạc trong nhà đại soái, ngay cả ma đầu như Lục Bỉnh cũng phải rơi lệ.
Rồi mày nhướng lên:
- Đại soái trước khi đi còn mãi không quên lẩm bẩm phục Sóc, bọn ta càng không quên. Từ đó trở đi, phục Sóc, tẩy oan cho đại soái là tâm nguyện cả đời của Vương Sùng Cố này.
Thẩm Mặc mìm cười đẩy một bản tấu tới trước mặt hắn.
Vương Sủng Cố thấy trên phong bì hàng chữ ngay ngắn "sớ xin bình xét lại Tằng Tiển Hạ Ngôn", đúng là bút tích của hắn, đó là tấu sớ hắn dâng lên vào tháng tư.
Nếu như không có tấu sớ này Thẩm Mặc không hiểu tiếng lòng của Vương Sùng Cố càng không khách khí với hắn như thế.
Trước kia chẳng phải kẻ này ngoài nghe trong chống, y đã chẳng phải ra tay, làm lộ một phần thực lực.
Đương nhiên cũng chẳng thể làm gì nổi hắn, Vương Sùng Cố không biết, Từ Giai và Dương Bát đã ngầm đạt thành hiệp nghị, để biểu thị phục tùng Sơn Tây bang nhường ra binh bộ, nhưng lợi ích ở Cửu biên không thể xâm phạm, đó là giới hạn, nếu lấn tới, Dương Bác không nhịn nữa.
Hiệp nghị này, Từ Giai có thể nói cho Thẩm Mặc, nhưng Dương Bác chẳng thể nói với Vương Sùng Cố, nên đóng cửa mặc cho Thẩm Mặc làm gì thì làm.
Hơn nữa có thể làm Thẩm Mặc phải làm kẻ ác một hồi, Dương Bác vui vẻ mà làm.
Đừng thấy gần đây Thẩm Mặc sát phạt quyết đáng rất uy phong, nhưng người làm quan biết, càng như thế, càng khiến người ta ghét. Trên quan trường, àng im tiếng càng phát tài. Phải làm chuyện đắc tội với người này, y cũng hết sức thống khổ, chẳng phải điều y mong muốn.
Nên suy nghĩ về lâu về dài, y phải tu bổ quan hệ với Vương Sùng Cố, may mà có ấn tượng với bản tấu kia, nên có đoạn mở đầu ở trên.
Vương Sùng Cố run rẩy mở trang cuối cùng ra, thấy "lời phải, lệnh lễ bộ mau mau đề xuất quy chế báo lên" bên cạnh là dấu ấn của hoàng đế.
- Nói thế...
Vương Sùng Cố không kìm được nước mắt:
- Đại soái rốt cuộc cùng được bình xét lại rồi?
- Đúng thế.
Thẩm Mặc rất kích động, nhưng y sớm tu luyện được tới độ ưu sầu không lộ ra ngoài, bình tĩnh nói:
- Điều này nghĩa là gì, huynh hẳn rõ hơn ta?
Vương Sùng Cố gật đầu:
- Có nghĩa là triều đình đã thừa nhận phục Sóc.. Là đúng.
Tới đó nghẹn ngào không nói lên lời nữa.
Thẩm Mặc đợi hắn bình tĩnh lại mới nói:
- Từ sau khi Tằng đại soái ra đi, triều đình không ai dám nói tới phục Sóc nữa, khiến cho tới nay có kẻ cho rằng không cần phục Sóc..
- Hoang đường.
Vương Sùng Cố quát xong vội thỉnh tội:
- Đại nhân thứ lỗi, hạ quan mạo phạm.
Hắn không dám cậy già xưng lão ca nữa.
Thẩm Mặc phất tay bảo hắn nói tiếp:
- Lời Tằng đại soái dùng cho bây giờ vẫn thích hợp, Hoa Hạ không phải họa do không binh, mà họa do không luyện binh. Chi phí phục Sóc, chỉ bằng chi phí một năm cho Tuyên Đại, địch sở dĩ xâm nhập thoải mái, vì khinh Trung Nguyên không còn ai...
Nói tới đó thấy Thẩm Mặc cười nhìn mình, mặt Vương Sùng Cổ đỏ lên:
- Hạ quan quên rồi...
- Không phải huynh quên, mà là chưa tới vị trí làm được, không làm không biết khó khăn nhường nào, một chút thiếu chu toàn thôi là có kẻ kéo chân, kẻ bản lĩnh lớn còn thừa dịp hạ ngươi.
Vương Sủng Cố vốn còn ca thán việc Thẩm Mặc chia doanh luyện binh, hiện giờ biến thành thông cảm:
- Đại nhân làm rất đúng, khó thì khó nhưng phải kiên trì.
- Giám Xuyên huynh, ta có việc muốn mời huynh làm.
Thẩm Mặc nghiêm nghị nói.
- Có hạ quan.
Vương Sùng Cố ngồi ngay ngắn đáp:
- Mời đại nhân phân phó.
- Vị trí năm xưa của Tằng đại soái ta nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có huynh thích hợp.
Quanh đi quẩn lại Thẩm Mặc đã xòe bài.
Đương nhiên vừa rồi chẳng phải lãng phí nước bọt, nếu y vừa mở đầu đã đề xuất yêu cầu này Vương Sùng Cố rất nhiều lý do chối từ, vì vào lúc này nếu đi có vẻ như bị đẩy khỏi kinh thành, nhưng Thẩm Mặc trải đường trước rồi, nhất là việc bình xét lại Tằng Tiển, trong mắt mọi người sẽ thành triều đình ủy thác trọng trách.
Quả nhiên Vương Sùng Cố sắc mặt biển đổi một hồi rồi đồng y, nhưng hắn chưa yên tâm:
- Vậy chuyện binh bộ sẽ ra sao?
- Truy tra sẽ có giới hạn, hơn nữa chư công binh bộ đều hiểu chuyện quân sự, sau này sẽ dùng tới.
Vương Sùng Cố cuối cùng yên tâm vui vẻ từ trị phòng Thẩm Mặc đi ra, làm thi vệ nhìn thấy ngẩn người:" Đây là người lúc nẫy đi vào như chết rồi đấy sao?"
Tới tận khi về đến thiêm áp phòng của mình, Vương Sùng Cố mới nghiền ngẫm lại, vỗ đầu mình:
- Khổ nhục kế không thành lại trúng hỗn chiến kế của người ta.
Có điều kết qua rnày còn chấp nhận được, Vương Sùng Cố không gây chuyện nũa. Đối phó với Hoắc Ký, Thẩm Mặc cũng tùy bệnh bốc thuốc, y cũng có lời ngon ngọt dụ hữu thị lang đại nhân đi Tuyên Đại làm tổng đốc.
Nhưng sự ôn hòa này chỉ tồn tại giữa cao tầng với nhau, kẻ dưới phải thành dê thế tội. Một ngày sau khi Thẩm Mặc thuyết phục được hai vị thị lang, y đưa tù phạm từ Cẩm Y vệ giao cho hình bộ. Kết quả một người sợ tội tự sát, một chết rét trong ngục, chấn động triều đình.
Vì thế không ai mặt mũi nào đi truy cứu những cô nhi quả phụ đáng thương nữa, vốn gia quyến phạm nhân phải đưa tới giáo phương ti, chỉ bị đưa về nguyên quán, giám thị chỗ ở, coi như hi sinh có chút giá trị.
----- oo0oo-----