Mặc dù Thẩm Mặc không nhận công, nhưng Cao Củng nhận ân tình này, chắp tay vái Thẩm Mặc.
Thẩm Mặc thở dài, đi qua đỡ ông ta lên, hai người đều hiểu nhau, không cần nói thêm gì nhiều, Thẩm Mặc mời Cao Củng ra là vì nước, nếu có chút lòng riêng tội gì đem tảng núi lớn chặn trước mặt.
Thẩm Mặc lên tiếng trước:
- Hi vọng Quản Trọng huynh, đừng làm Lão Bảo đệ thất vọng nhé.
*** Bảo Thúc Nha là người tiến cử Quản Trọng.
Thấy y đem nhà cải cách Quản Trọng so với mình, Cao Củng nổi lòng tri kỷ nói:
- Nay quốc sự nguy nan như tường sắp đổ, chính cần huynh đệ ta đồng tâm hiệp lực, để thành sự nghiệp vĩ đại chưa từng có.
Nhìn thấy vẻ chân thành của Cao Củng, Thẩm Mặc trịnh trọng gật đầu:
- Nguyện phò tá Tân Trịnh công thành đại nghiệp này.
Để thủ phụ nói ra lời "phò tá", dù là người không chịu phục ai như Cao Củng mặt cũng nóng lên:
- Hỗ trợ lẫn nhau mà thôi.
- Chim không đầu không bay được.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Để Tân Trịnh công làm chính, đệ làm phụ.
Cao Củng có thể thản nhiên mà nhận với bất kỳ ai, nhưng với Thẩm Mặc thì không dám, Thẩm Mặc nói lớn:
- Đệ đâu phải tác thành cho danh vọng của lão huynh, thuần túy là lo lắng cho quốc gia, vì sao đùn đẩy mãi, chẳng lẽ có lòng riêng?
Bị Thẩm Mặc nói thế, Cao Củng chắp tay nói:
- Vậy ta đành nhận.
- Nên như thế chứ.
Thẩm Mặc đứng dậy, vài Cao Củng thật sâu:
- Mong tấm lòng vì quốc gia triều đình của Tân Trịnh công vĩnh viễn không mất.
- Giang Nam...
Cao Củng cảm động hết sức, ông ta nhớ tới khi hai người ở Quốc tử giám, đã cùng ôm chí vì thiên hạ, mười năm sau thời khắc thực hiện cũng đã tới.
Hai người nắm chặt tay nhau, coi như kết minh, lúc này ai về chỗ nấy, thảo luận việc tiếp theo.
- Nay chuyện rối bung rối bét, không biết Giang Nam cho rằng nên bắt đầu từ đâu?
- Trước lập quyền uy, sau chỉnh đốn lề thói.
Thẩm Mặc trầm giọng nói:
- Phải làm tốt hai việc này mới nói tới cải cách cụ thể được, nếu không... Giống như đệ cải cách quân sự, Trương Thái Nhạc cải cách tài thuế, chỉ được nửa vời, làm người ta thất vọng.
- Đúng thế, ta cũng có suy nghĩ này, vậy phải làm sao?
- Lập quyền uy, ắt phải quét hết dư uy của kẻ trước.
Thẩm Mặc nhìn về phía trước, như muốn xuyên qua tường, thấy tương lai xa xôi:
- Lão huynh là lại bộ thượng thư...
Cao Củng hiểu ý gật đầu, trầm ngâm một lúc hỏi:
- Đệ thấy Triệu Trinh Cát thế nào.
- Người này lòng có tài tế thế, tâm có chí báo quốc, là người hết sức hiếm có.
Không ngờ Thẩm Mặc đánh giá Triệu Trinh Cát rất cao.
Nụ cười Cao Củng cứng lại, giọng trở nên nặng nề:
- Nói thế tức là không thể động vào ông ta?
- Phải động.
Thẩm Mặc bi ai nói:
- Trương Thái Nhạc nói đúng, lúc nguy nan thế này phải bớt tranh luận, trọng chiếu lệnh... Ài, để ông ta xuống địa phương làm quan lớn một vùng là chuyện lưỡng toàn kỳ mỹ.
Cao Củng gật đầu:
- Đúng thế.
Ấn tượng của Thẩm Mặc về Triệu Trinh Cát vẫn dừng ở lần tiễn Triệu lão phu tử nghỉ hưu, được tặng cuốn Mạnh Tử.
Thế nhưng sau khi nhập các lão Triệu lại như thành một con người khác, rất nhiều người nói ông ta nhìn thấy xếp phía trước toàn là hậu bối, cho nên tâm lý mất cân bằng.
Nhưng Thẩm Mặc biết, người này không nông cạn như thế, thứ ông ta thể hiện ra, chẳng qua chỉ là một loại thủ đoạn.
Là các lão tuổi cao nhất, nhưng vị trí xếp gần cuối, nếu cứ làm theo lệ thường thì e phải tới kiếp sau mới lên nắm quyền được, chỉ có ai cũng dám chọc, lúc nào cũng bày ra tư cách lão làng mới có quyền phát ngôn.
Triệu Trinh Cát có tài có lòng báo quốc là thực, nhưng ông ta đã trên 60 rồi, tư tưởng bảo thủ và cầu ổn định. Cùng Lý Xuân Phương, Trần Dĩ Cần đi theo con đường của Từ Giai, thành chướng ngại lớn nhất của cải cách.
Vì đuổi Từ Giai đi, Thẩm Mặc phải hi sinh rất nhiều, nhưng ngăn cản Cao Củng hạ thủ với ông ta, vì tán thưởng nhân phẩm của người này.
Đêm đó bàn kế xong, hôm sau Cao Củng liền về lại bộ nhậm chức, hôm đó là ngày 11 tháng 7 năm Long Khánh thứ hai, được hậu thế gọi là khởi điểm của cải cách ngàn đời...
Trước kia trọng điểm công tác của Từ Giai và Lý Xuân Phương chỉ là điều chỉnh chênh lệnh xã hội nghiêm trọng của Đại Minh, hóa giải một chút ít, nhưng không dám đụng vào "hiến pháp tổ tông", tất cả đều tuân thủ cái cũ, gặp phải vấn đề là đi đường vòng, không dám thăm dò cải cách toàn cục.
Nếu là Thẩm Mặc làm thủ phụ, chỉ e kết quả không chênh lệch là bao, ít nhất ở giai đoạn này, y chưa cho rằng tới lúc mình ra mặt.
May ưu điểm lớn nhất của y là biết đặt người thích hợp nhất vào một vị trí.
Cao Củng đúng là lại bộ thượng thư số một, ngày đầu tiên tới bộ, liền mở cuộc họp toàn thể ti quan, không hàn huyên, không rườm lời, lập tức vung ngay bảo kiếm trong tay lên.
Đầu tiên ông ta nghiêm khắc phê bình chế độ khảo sát nhân sự dùng trong hai trăm năm qua, ba năm khảo sát một lần, ba lần mới luận thăng giáng, mà năm 9 năm, có người chết, người đình ưu, sự cố v.v.. v.. mà mất chức, có người thuận lợi thăng tiến liên tục, làm gì có chuyện ở nguyên vị trí chín năm đợi tam khảo? Mà cái gọi là khảo sát liền thành chỉ thăng không giáng.
Hoang đường hơn nữa, mỗi năm tới kỳ khảo sát, số lượng quan viên bị đánh trượt đều ngang nhau, Cao Củng chất vấn:
- Làm gì có chuyện cứ sáu năm số quan viên không hợp cách lại định sẵn như thế? Có thể thấy có kẻ muốn làm cẩu thả cho xong việc mà thôi.
Làm đám quan viên xấu hổ vô cùng.
Cao Củng trước nay không nể mặt kẻ thất chứng, chỉ ra:
- Dù là quan viên không hợp cách, lại bộ chẳng qua chỉ nói mập mờ lý do; còn kẻ đại gian đại ác thì làm như không biết, thậm chí là đảo lộn trắng đen, gọi là cao khiết. Loại khảo sát này chẳng qua là dung túng hổ lang, dìm chết cáo chuột hay kẻ không phục mà thôi.
Vì vậy Cao Củng nhấn mạnh làm nghiêm kỷ luật: Phàm là quan viên nhận lệnh mà không tới nhậm chức, tất cả miễn chức hạ cấp. Đối với quan tham ô bị tra ra bằng cứ, không cho phép phục chức; với quan viên bị khoa đạo đàn hặc với xác thực được chứng cứ mới xử trí; đối với quan viên lại bộ phạm pháp tội nặng thêm ba bậc. Yêu cầu ti quan lại bộ đem tất cả hồ sơ quan viên đóng thành sách, đồng thời phía dưới ghi chú rõ trước tiên làm gì, có xứng chức không, tránh dùng sai người. Đương nhiên quan viên đưa ra đánh giá phải chịu trách nhiệm, một khi dùng sai người phải bị trừng phạt v.. v.. v..
Hội nghị còn chưa kết thúc, tiếng than vãn đã nổi lên khắp nơi. Lại bộ là nơi quyền lực lớn nhất, béo bở nhất, rất nhiều quan viên dựa vào quyền lực nhân sự trong tay, thi ân với người khác kiếm chác. Nếu làm như Cao Củng, còn đắc tội hơn cả Đô sát viện, nghĩ tới thành nha môn thanh bạch lại còn đắc tội với khắp nơi, đám quan viên nghĩ, còn cho người ta sống nữa không?
Vì thế có một tên lang trung lấy dũng khí nói:
- Bộ đường, trước kia đâu có quy củ này.
Cao Củng liếc xéo hắn:
- Ngươi mới tới phải không?
Lang trung kia ngớ người:
- Vâng, hạ quan ở tỉnh, mãi tới nắm ngoái mới điều đến bộ.
- Chẳng trách.
Cao Củng vỗ vai hắn:
- Năm xưa ta còn là thị lang, liền nói tiền nhiệm của ngươi một câu, hiện giờ ngươi nghe kỹ, ta chỉ nói một lần.
Người kia liền bày ra vẻ rửa tai lắng nghe, Cao Củng trầm giọng nói:
- Nhớ kỹ, sau khi ta tới, là có quy củ này.
Nói xong mặc cho thị lang kia há hốc mồm, sải bước đi khỏi hội đường.
Muốn làm tốt việc gì, thì phải có công cụ làm việc trước.
Mà công cụ trong tay Cao Củng, là lại bộ, cho nên trước khi chỉnh đốn các nha môn khác, ông ta phải chỉnh lại bộ một lượt.
Đầu tiên, nghe nói ông ta muốn khảo sát trong bộ, đám quan viên tuy lo nhưng vẫn nghĩ, chẳng qua tân quan thượng nhiệm nên mới nhiệt vậy thôi, chẳng lẽ Ca Rậm Râu dám đuổi toàn bộ bọn ta sao, vậy ai làm việc cho ông?
(thiếu phần 2 của chương này)
Đúng thế, về điểm này y không nói thực với đại gia tộc, đại quan ở đông nam. Những người đó chỉ có được tin tức là, Cao Củng là lá chắn dư luận, đao khai sơn diệt trừ đối thủ của Thẩm các lão, là loại dùng xong rồi vứt.
Song đó chỉ là cái cớ Thẩm Mặc mà thôi, nếu y cần một cái lá chắn, cần một thanh đao, hiện giờ chẳng biết có bao nhiều người sẽ sẵn sàng ra sức vì y, cần gì thả Cao Rậm Râu căn bản không chịu khống chế, không khéo cắn trả ra?
Mục đích của Thẩm Mặc chỉ có một, là dùng người làm việc mình không làm nổi, vạn sự khởi đầu nan, khó nhất là khởi đầu, chỉ có Cao Củng là có thể khởi đầu được.
- Thấy Thẩm Mặc có chút xuất thần, Cao Củng chỉ nghĩ y lo lắng về hậu quả của sự kiện này, nói nhỏ:
- Chuyện phía sau ta tự có chủ chương, lão đệ không phải lo.
Thẩm Mặc tỉnh lại, hỏi:
- Có cần đệ giúp gì không?
Cao Củng nghĩ một lúc rồi nói:
- Ta biết trong tay đệ có một đám thanh niên tài tuấn, có thể tiến cử mười mấy người qua không?
Thẩm Mặc cười khổ:
- Huynh chắc đó là tài tuấn chứ không phải củ cái?
- Lão đệ không cần lo ta sẽ cả nghĩ.
Cao Củng tuy không thèm vòng vo, nhưng ông ta có đôi mắt lửa ngươi vàng, có thể nhìn thấu bản chất sự việc:
- Cao Củng ta lấy nhân phẩm đảm bảo, tuyệt đối không phải vì do đệ tiến cử mà đưa vào danh sách khác! Tiến cử người hiền không tị hiềm thân nhân, Giang Nam đừng chối từ nữa.
- Huynh cũng đừng hiểu lầm.
Thẩm Mặc chỉ còn biết cười khổ.
- Đệ không có tâm tư lấy công cụ triều đình dùng vào việc riêng, chỉ là bọn chúng còn quá trẻ, ai hơn ai kém còn chưa nhìn ra, có lẽ trưởng thành theo tự nhiên sẽ tốt cho bọn chúng hơn.
- Giang Nam, thời gian không đợi ta.
Cao Củng mặt đầy nhiệt thành:
- Hiện giờ cần lượng máu tươi mới, phá vỡ cục diện suy đồi, mới làm triều đình sống lại. Đệ không cho bọn chúng cơ hội, làm sao biết bọn chúng có được hay không?
Xem ra Cao Củng đã thất vọng tột độ với đội ngũ quan liệu hiện tại rồi.
Thẩm Mặc đau đầu lắm, nhưng hiện giờ Cao Củng mới nhậm chức, sĩ khí chỉ được lên không được xuống, nên dù không thiếu lo lắng, y vẫn gật đầu:
- Đệ sẽ cho huynh danh sách.
- Quá tốt.
Cao Củng hài lòng vỗ tay, thấy sắp tới thiêm áp phòng, nói:
- Phải rồi, lần trước chẳng phải đệ bảo muốn thương lượng với ta vài việc sao? Chọn ngày không bằng gặp ngày, hôm nay luôn đi.
- Cũng được.
Hai người đi vào thiêm áp phòng, đóng cửa lại thương lượng.
Thẩm Mặc muốn nói với Cao Củng ba việc, kỳ thực không phải mới mẻ gì, mà y ấp ủ lâu rồi, cũng đã thử đề xuất, nhưng không được Từ Giai coi trọng.
Thứ nhất lac huyện cải cách Quốc tử giám mà y đã từng nhắc tới ở Nam Kinh.
Chế độ Quốc tử giám nếu như được chấp hành quán triệt nghiêm khắc, sẽ bồi dưỡng ra rất nhiều nhân tài trị quốc, quốc gia lo gì không có người để dùng? Thực ra năng lực hành chính của Đại Minh là tốt nhất, là thời kỳ quốc gia cường thịnh nhất, chính là nhờ giai đoạn giáo dục chấp hành tốt.
Thế nhưng cùng với quốc lực Đại Minh suy giảm, vì bù đắp thiếu hụt tài chính, cho phép đại hộ "quyên hiến nhập giám", khiến số giám sinh tăng vọt, chất lượng tụt giảm.
Triều đình cũng không gánh vác nổi chi phí giáo dục đắt đỏ, nên giảm tiêu chuẩn tốt nghiệp, rút gọn thời gian học tập...
Điều này làm địa vị Giám sinh mất hẳn, không thể so được với quan viên xuất thân chính đồ, từ quốc tử giám đi ra, cùng lắm chỉ làm tới được tri huyện là quá lắm, hoặc vào nha môn chim chẳng buồn ỉa như Hồng Lư tự, Thái phó tự, không hề có tiền đồ.
Kết quả giám sinh ngày càng nản chí, thậm chí xuất hiện chuyện con cháu đại hộ thuê người lên lớp hộ, khảo hạch càng chỉ còn hình thức, khiến Quốc tử giám chỉ còn lại trên danh nghĩa, hoàn toàn đi nược lại mong muốn ban đầu của thái tổ.
Cải cách Quốc tử giám, khiến nó khôi phục lại tác dụng Thẩm Mặc khi còn làm ti nghiệp Quốc tử giám đã đề xuất với tế tửu Cao Củng, cũng từng tham khảo với Trương Cư Chính, cả hai đều cho rằng, suy nghĩ của y có ý nghĩa phi phàm, cũng có khả năng thành hiện thực...
Trước tiên Quốc tử giám có pháp độ tổ tông bảo vệ, chỉ cần nắm được quyền là có thể thi hành, không ai dám công khai phản đối, cần vượt qua được vài năm đầu, đợi giám sinh có được thành tích, sẽ thành pháp điển vạn đời không đổi.
Đồng thời, nhờ phúc của Chu Nguyên Chương, nhân số quan lại của Đại Minh là ít nhất trong các triều đại, không hề tồn tại vấn đề biên chế phình to, thậm chí các nha môn TW, phủ huyện địa phương thiếu người nghiêm trọng.
Nếu dưới tiền đề không gia tăng số người vượt qua khoa cử, lại cung cấp đủ giám sinh ưu tú cho các chức vị trống, sẽ không bị đội ngũ quan lại phản đối.
Thế nhưng khi đó cả ba người cho rằng, muốn làm được việc này, phải thỏa mãn ba tiền đề:
Thứ nhất, phải nắm được quyền lực quốc gia, ít nhất phải có quyền định đoạt trong nội các.
Thứ hai, phải tiến hành cải cách lề thói, ít nhất khi giám sinh mới thứ nhất hoàn thành học tập, có đủ quan chức cung cấp, hình thành vòng tuần hoàn tốt.
Thứ ba, ngăn chặn quyên giám, điểm này không chỉ ba người mà triều đình cũng sớm hình thành nhận thức chung, muốn đề cao chất lương và địa vị của giám sinh.
Thấy Thẩm Mặc nói lưu loạt tự tin, thi thoảng còn biểu hiện sự hưng phấn khác hẳn thường ngày, Cao Củng vuốt râu cười:
- Nói như thế là lão đệ cho rằng thời cơ đã chín muồi?
- Đúng vậy.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chuyện này cần lại bộ, lễ bộ, Quốc tử giám chung vai phối hợp mới được. Chỗ Từ Vị và Cao Nghi, đệ đã trao đổi, đều không có vấn đề, chỉ cần huynh toàn lực ủng hộ là có thể làm.
- Được.
Cao Củng vỗ bàn nói:
- Vậy cùng mở cuộc họp, thảo luận chi tiết, để mau chóng triển khai.
- Đệ đang muốn thế đây, chuyện thứ hai là cải cách nhân sự binh bộ mà chúng ta từng thảo luận.
- Ừm...
Cao củng lấy ra mấy bản tấu trên bàn:
- Có phải mấy cái này không?
Thẩm Mặc lấy một bản lên xem, gật đầu nói:
- Chính nó, thì ra huynh đi trước một bước, viết thành tấu sớ rồi.
- Ha ha, toàn là trên đường đi rảnh rỗi viết bừa.
Cao Củng có chút tự hào nói:
- Đệ xem xem có cần bổ xung gì không?
Thẩm Mặc gật đầu, đọc xem, thấy nội dung trung tâm mấy bản tấu này có ba phương diện.
Thứ nhất, xét thực tế biên quan hơn trăm năm qua nhiều chuyện, trong thiếu quan viên hiểu tình hình, ngoài thiếu tướng soái đủ tài, mà bộ thần cùng biên soái qua lại có khoảng cách, cho nên xin trong binh bộ tăng thêm hai thị lang, thỏa mãn nhu cầu phòng vụ.
Phương án này là một sáng tạo, thị lang tăng thêm vừa có thể nhậm chức trong bộ, lại có thể tùy thời lấy tư cách thị lang làm tổng đốc biên phỏng. Cơ chế này khiến thượng thư và tổng đốc liên kết và phối hợp chặt chẽ hơn, hạn chế tình trạng bộ thần và tổng dốc mỗi người làm một phách trước kia.
Phương diện thứ hai là kiến nghị chuyên nghiệp hóa quân sự và quan văn.
Ở các địa phương, đốc phủ to hơn tổng binh, cho nên đốc phủ là trưởng quan tối cao, nhưng đốc phủ không nghiên cứu chuyên môn quân sự, Cao Củng và Thẩm Mặc cho rằng, dùng người như thế khiếm khuyết quá lớn, kiến nghị chuyên dụng.
Vì thế tấu sớ nói "chuyện binh là chuyện chuyên môn, không phải ai cũng có thể làm..."
Nói thẳng ra là đối với các cấp quan lại của binh bộ phải tuyển dụng chuyên môn, hơn nữa lại lưu dùng lâu dài, không điều qua bộ phận khác, để tiện bồi dưỡng nhân tài quân sự chuyên môn...
Phương diện thứ ba là đối với văn võ biên cương, tuyển chọn phải nghiêm, phạt phải nặng, ưu đãi cũng phải đặc biệt.
Thời đó, những nhân vật xuất thân bất chính, hoặc phạm tội, hoặc là không thể an bài trong nội địa là đầy ra biên cương nhậm chức. Kết quả đương nhiên là những người đó chẳng tâm tư nào chú ý đến chuyện nhung chính.
Phương án chỉnh đốn là tuyển quan tùy vùng, biên cương là vùng xa xôi, nhưng là cánh cửa quốc gia, quản lý tốt hay không, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới an nguy quốc gia.
Vì thế nên chọn người kiêm võ sự, tuổi trẻ tinh tráng, có hào khí. Bỏ đi cái tệ đoan coi biên cương là nơi lưu đầy.
Tiếp đó thưởng phạt phải công minh, lấy hiệu quả quản lý làm tiêu chuẩn, không thể chỉ bằng tư lịch xuất thân. Nếu thành tích nổi bật, quân công trác tuyệt, thăng tiến sớm hơn quan viên nội địa, thậm chí phá cách đề bạt; nếu đùn đẩy trách nhiệm, làm lỡ quân cơ, nhẹ thì giáng cấp nặng thì lấy quân pháp ra trị.
Phương sách trọng thưởng phạt này sẽ khích lệ tướng tá biên quan chăm chỉ chính sự, ra sức chiến đấu; đem so với trước kia công tội không phân, thưởng phạt không rõ, không quan tâm tới binh sĩ vất vả, đương nhiên là một tiến bộ lớn, sẽ thấy hiểu quả tức thì.
Cao Củng uống cạn nước trong bình trà, vừa định nói thì thấy Thẩm Mặc lắc đầu mặt đầy tiếc nuối, không khỏi lo lắng hỏi:
- Sao thế, có gì không ổn à?
Cao Túc Khanh hết sức khâm phục thanh niên trẻ hơn mình tới 24 tuổi này, vì ông ta cảm nhận được đối phương nhìn vấn đề còn toàn diện sâu sắc, nắm phương hướng lớn còn chuẩn hơn mình.
Thẩm Mặc biết phải để Cao Củng kiêng kỵ và khâm phục mình, nếu không ông ta sẽ chẳng thèm quan tâm ý kiến của mình, coi mình như tay sai... Cùng lắm chỉ là tay sai cao cấp.
Thấy Cao Củng khẩn trương nhìn mình, Thẩm Mặc cười:
- Đừng hiểu lầm, đệ chỉ đang cảm thán, nếu lão huynh là thủ phụ thì tốt rồi, chuyện "võ chức tỉ thí" sẽ được thi hành triệt để.
Cú vỗ mông khéo léo quả nhiên làm Cao Củng sướng rơn, cười khà khà:
- Chuyện đó của lão đệ ta ở quê nhà đã nghiên cứu qua rồi, đúng là khả thi. Mặc dù ta không phải thủ phụ, nhưng không có nghĩa là ta không giúp được đệ.
- Ồ, huynh nói ra xem nào?
Thẩm Mặc lên tinh thần.
- Ta chuẩn bị lấy danh nghĩa lại bộ, thi hành "khảo hạch pháp", yêu cầu lục bộ TW tới các cấp địa phương, phải làm xong đúng kỳ hạn nộp lên...
Cao Củng hể hả nói:
- Chỉ cần đem số lượng và chất lượng khảo sinh võ chức vào trong tiêu chuẩn khảo hạch, lo gì bọn họ không tận lực mà làm.
Thẩm Mặc cười phá lên:
- Chỉ là làm như thế chẳng biết có bao nhiêu người chửi sau lưng huynh!
- Chỉ cần có thể cản được cơn sóng dữ, kéo dài quốc độ, ta quan tâm làm gì mấy tiếng chửi.
- Hay.
Bị hào tình của Cao Củng cảm nhiễm, Thẩm Mặc vỗ tay khen:
- Đúng là "bình sinh không biết Cao Tân Trịnh, há dám xưng kẻ hào kiệt?", đúng là thông khoái.
- Quá khen rồi.
Cao Củng cũng cười vui vẻ:
- Ta lại nghe người ta nói, sống không cần phong vạn hộ hầu, nhưng nguyện được biết Thẩm Thiệu Hưng.
- Được rồi, chứng ta đừng thổi phòng nhau nữa.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Ý tưởng này tuy mỹ hảo, nhưng muốn biến thành hiện thực không biết còn bao khó khăn. Cái gì chưa nói chỉ "khảo hạch pháp " này của huynh đã đắc tội với ối người rồi.
- Cải cách vốn là việc đập bát cơm của kẻ khác mà, sao không đắc tội được. Ta chẳng sợ, thiên hạ này chẳng thiếu kẻ đợi được làm quan, kẻ nào không nghe lời thay kẻ đó, tưởng thiếu bọn chúng là không xong sao?
- Không thể quá gấp.
Thẩm Mặc cau mày:
- Nếu không cản trở ngày càng lớn, dù sao chỉ cần làm được việc không phải là khoe khoang sức mạnh của mình.
Đó là lời phê bình uyển chuyển của Thẩm Mặc về chuyện ngày hôm nay.
Trên đời chỉ có Thẩm Mặc nói chuyện với Cao củng như thế mà không bị ông ta khó chịu... Đương nhiên Long Khánh cũng có thể, nhưng hắn tuyệt đối không phê bình sư phụ của mình.
Cao Củng nghe thế im lặng chốc lát, sau đó nói:
- Cái nhìn của ta lại hoàn toàn ngược lại, phải dùng thế sấm sét, thứa lúc bọn chúng chưa kịp phản ứng làm xong việc. Như thế mới nắm được quyền chủ động.
Nói rồi lo lắng nhìn Thẩm Mặc, ông ta biết cải cách muốn thành công không thể thiếu sự ủng hộ của y.
Thẩm Mặc nghe vậy mỉm cười:
- Được, nghe huynh hết.
Thấy y đồng ý thống khoái như thế, Cao Củng yên tâm hẳn.
Hai người tiếp tục thương lượng vài câu, biết Cao Củng đang bận chuyện trong bộ, Thẩm Mặc đứng dậy cáo từ, Cao Củng đưa y ra ngoài, thấy Lục Quang Tổ đang đợi ở hành lang, hỏi nhỏ:
- Nghe nói đệ và hắn quan hệ cũng được.
- Huynh bảo không phân biệt đối xử cơ mà.
Thẩm Mặc không phủ nhận, ở chỗ Cao Củng phủ nhận là giả dối.
- Kha kha, đệ hiểu lầm rồi, ta chỉ muốn làm rõ, ai có thể dùng được mà thôi.
- Dùng đi, hắn là tài năng hiếm có, ắt có thể giúp được huynh một tay.
- Ừ.
Cao Củng gật đầu, tiễn y rời nha môn.
Cao Củng thay tẩy lại bộ, không hề bất ngờ khơi lên cơn sóng lớn, dư luận chửi ông ta hẹp hòi, độc tài, ngang ngược. Thế nhưng mọi người nhiều lắm cũng chỉ thầm nghiến răng nghiến lợi, cùng lắm chửi lén sau lưng, chẳng ai dám chỉ trích trước mặt, càng không dám dâng thư đàn hặc, ai mà dám vuốt râu hổ?
Cao Củng vốn chuẩn bị sẵn sàng đón đợi một cuộc phản kích lớn, ai ngờ ngoại trừ thi thoảng nghe mấy câu chửi ra thì chẳng ai dám đối đầu với mình, thầm nghĩ:" Khà khà sợ rồi chứ gì?"
Sau khi rửa sạch lại bộ từ trên xuống dưới, Cao Củng đem một nửa vị trí trống đổi thành người của mình, một nửa là tiểu thanh niên Thẩm Mặc cung cấp.
Thấy không ai dám mạo hiểm chọc giận Cao Củng, đám bất mãn còn lại đành cụp đuôi xuống, làm việc cho ông ta.
Ổn định hậu phương lớn xong, Cao Củng không vội đem tấu chương mà ông ta và Thẩm Mặc soạn sẵn tung ra, mà khiêu chiến với bóng dáng bao phủ cả kinh thành kia...
Ông ta biết rõ, phương án của mình và Thẩm Mặc cho dù có tốt đến đâu, đề xuất ra với dám ngoan cố bảo thủ kia cũng chẳng ăn thua gì.
Vì Từ Giai tuy đã đi, nhưng trong triều vẫn còn nền móng của mình, tuyệt đại bộ phận vẫn phụng hành chính sách của Từ Giai.
Uy vọng Từ Giai gây dựng lên 20 năm, sức ảnh hưởng khủng bố của ông ta đủ để kẻ muốn làm trái ý ông ta không thể thi triển được.
Muốn cải cách, trước tiên phải triệt để đuổi bóng dáng lão già này ra khỏi kinh thành.
Đang vất vả tìm kiếm cơ hội thì cơ hội đã dâng ngay tới trước mặt.
Buổi chiều ngày hôm đó, Cao Củng như thường lệ từ nội các về lại bộ, hôm nay trực ban là Lục Quang Tổ, vội đem công văn buổi sáng, đem cho vị tổ tông này thẩm duyệt..
Khác với Dương Bác chuyện lớn không hồ đồ, chuyện nhỏ tùy tiện, thì Cao Củng cực kỳ hà khắc, chuyện lớn, chuyện nhỏ đều yêu cầu làm thật chính xác, không có chút sai sót nào, nếu không bất kể có là thị lang hay lang trung đảm bảo sẽ bị chửi cho thối mặt, làm ngươi hối hận đã bước vào sĩ đồ.
Chỉ trong chưa tới hai tháng, Lục Quang Tổ đã bị chửi ba lần, mặc dù đây là kỷ lục bị chửi ít nhất rồi, nhưng với Lục thị lang mà nói đây tuyệt đối không phải chuyện đáng khoe khoang.
Cho nên sau khi dâng lên số công văn kia, Lục Quang Tổ tuy làm bộ bình tĩnh đứng trước bàn, nhưng chuẩn bị sẵn sàng lấy nước bọt rửa mặt.
Cao Củng xem rất chăm chú, thiêm áp phòng cực kỳ yên tĩnh, mỗi lần Cao bộ đường cau mày là tim hắn lại run lên.
Sợ cái gì cái đó tới, khi Cao Củng xem tới một bản tấu, sắc mặt vốn bình thường liền tối lại, nhưng nhịn không lên tiếng, tiếp tục đọc. Nhưng khi đọc bản tấu tiếp theo cũng thế thì quẳng ngay sang một bên:
- Về sau thỉnh cầu kiểu này không phê chuẩn.
Lục Quang Tổ vội xem phong bì, biết ngay nội dung, thì ra là đám Đường Xu, Vương Tuân quan viên từ triều Gia Tĩnh, dâng tấu xin ấm ân...
Cả hai đều là quan viên được hồi phục nhờ Gia Tĩnh di chiếu, theo thông lệ trước đó, dâng thư lại bộ xin ấm quan. Tấu sớ như vậy từ khi di chiếu ban ra gửi tới không dứt, nhiều quan viên được xá miễn nhưng không trong danh sách được an ủi, giương cao di chiếu, hoạt động khắp nơi, ý đồ quay lại.
Mọi người đều biết Từ Giai hết sức coi trọng việc này, cho nên chẳng ai dám chuốc phiền phức vào thân, trừ hạng đại gian đại ác, tất cả thỉnh cầu đều được phê.
Chương 836: Cuộc loạn đấu cuối cùngLục Quang Tổ biết rõ, chỉ danh sách an ủi ban đầu là qua nghiêm khắc tuyển chọn, toàn bậc nghĩa sĩ được trong ngoài triều công nhận trung trinh, về sau toàn là cửa để người ta kiếm chác..
Lục Quang Tổ rất muốn hỏi:" Trong các ngươi kẻ nào dàm vỗ ngực tự xưng là mình vô tội bị đàn áp? Đa phần các ngươi đều đáng tội."
Về sau tiếng chất vấn trong triều ngày càng lớn, lại bộ không dám khua chiêng gõ trống phê duyệt an ủi nữa, nhưng hành vi này chưa hề lúc nào dừng, chỉ đổi thành công bố danh sách công khai, sang cá nhân dâng thư, kín đáo xử lý...
Thậm chí sau khi Cao Củng nắm lại bộ, suốt ngày bị tấu sớ kiểu này quấy nhiễu, phiền phức vô cùng.
Trước ngày hôm nay, mỗi lần có tấu thỉnh ắt khảo sát kỹ xem có hợp lệ không.. Nhưng kẻ không được duyệt, ỷ vào di chiếu, liên tục dâng thư, nhất quyết phải đạt được mục đích.
Thấy Lục Quang Tổ ngẩn ra, Cao Củng lớn tiếng lặp lại lần nữa:
- Về sau thỉnh cầu kiểu này không phê chuẩn nữa, đừng mang tới làm phiền ta.
Lục Quang Tổ nuốt nước bọt nói:
- Làm thế chỉ e trái với di chiếu tiên đế.
Nhắc tới di chiếu đó, sắc mặt Cao Củng âm trầm hết sức đáng sợ, chửi:
- Di chiếu cái rắm, toàn do họ Từ giả danh tiên đế, mua chuộc lòng người.
Lục Quang Tổ cũng trải qua mưa gió rồi, từ trong ngữ khí của Cao Củng, nghe ra ông ta muốn thừa cơ phát tác. Thẩm Mặc đã dặn hắn, phải toàn lực phối hợp với Cao Củng, dù là việc làm tổn hại cho đông nam cũng phải làm, nên Lục Quang Tổ gật đầu:
- Thuộc hạ cũng rất bực minh, biết trong này có không ít kẻ thừa nước đục thả câu, nhưng bọn chúng giương cao lá cờ di chiếu, chỉ cần không có hành vi xấu quá rõ, chúng ta không có lý do để cự tuyệt.
- Chẳng qua chỉ là thánh chỉ thôi.
Cao Củng thấy hắn không nói giúp đám người kia, sắc mặt dãn ra được một chút:
- Vậy ta xin một thánh chỉ, chặn đứng ảo tưởng của bọn chúng.
Nói làm là làm, chẳng ngại Lục Quang Tổ ở bên, lấy giấy trắng ra viết (chánh cương thường định quốc thị dĩ ngưỡng bì thánh chánh sứ).
"Quốc triều lấy hiếu trị thiên hạ, xưa nay giữ vững đạo cương thường quân thần phụ tử. Thế nhưng khi tiên đế giá băng, kim thượng đăng cơ, đại thần thác cô quên đi lễ quân thần, một vị giả di chiếu tiên đế, dùng lại hết kẻ vì đại lễ nghị mà mắc tội, thậm chí đề bạt lên công khanh, thực là hoang đường."
" Tiên đế linh thiêng trên trời làm sao an nghỉ được? Hoàng thượng mỗi lần tế miếu làm sao đối diện với tiền nhân? Chẳng lẽ tất cả những quan viên bị tội kia không kẻ nào là đáng chịu sao?"
"Vậy mà đại thần thác cô chẳng phân biệt có tội hay không, chẳng phân hiền hay ác, chỉ cần là tiên đế cách chức là sẽ phục hồi. Đây chẳng phải phỉ báng tiên đế hay sao? Cho dù là Chu Vũ Vương phản Thương, cũng chẳng qua bình xét lại cho vài người mà thôi, chưa từng bao giờ nghe nói người triều Thương bỏ là sẽ dùng hết. Huống chi kim thượng và tiên đế không phải là hai triều đại, mà là thân sinh phụ tử, nhưng lại bị ép phỉ bảng phụ tử ân nghĩa, làm thần đau đớn vô cùng."
" Thần chấp chưởng lại bộ tới nay, chuyển xin ân ấm tràn lan như Đường Xu, Vương Tuấn Dân đều nhất luật dừng lại, tránh tình thế ngày càng tệ, không thể vãn hồi. Loại hành vi lung lạc nhân tâm thi ân cầu lợi này lại được người đời cho là chuyện bình thường, chẳng lẽ lẽ trời đã tận diệt, lòng người đã trơ lỳ rồi sao? Vì thế thần xin bệ hạ thánh dụ cho người đời, nay về sau phàm kẻ lạm thi ân đẩy oán cho tiên đế, đều luận tội đại bất kính."
Viết xong Cao Củng đưa tấu sớ cho Lục Quang Tổ xem, dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng anh bạn Tiểu Lục mặt tắng bệnh, kêu khổ không thôi:" Quả nhiên thần tiên đánh rắm chẳng hề tầm thường, ngài thì hả giận rồi, nhưng Từ các lão để mặt mũi vào đâu?" Liền khuyên Cao Củng, liệu có nên uyển chuyển một chút?
- Tại sao bọn chúng không uyển chuyển với tiên đế một chút?
Cao Củng phất tay, bắt hắn đem tấu sớ tới Thông chính ti.
Cánh tay không vật nổi bắp đùi, Lục Quang Tổ đành làm theo. Nhưng hắn đánh giá thấp sức ảnh hưởng của Cao Củng với hoàng đế, càng đánh giá thấp độ mẫn cảm chính trị của Cao Củng...
Chỉ hai ngày sau liền được tin hoàng đế phê chuẩn tấu của Cao Củng, thầm cảm thán, Đại Minh sang thời đại khác rồi.
Kỳ thực còn rất nhiều người đánh giá thấp trí tuệ chính trị của Cao Củng, tưởng ông ta nhìn ai ngứa mắt là vác gạch đập, không thèm vờ vịt. Kỳ thực dưới bề ngoài thô hào đó là trí tuên sâu xa, ông ta mẫn cảm nhận ra, mặc dù ban đầu Long Khánh ủng hộ di chiếu, nhưng hai năm sau, lòng hoàng đế đã phát sinh biến hóa cực lớn.
Chẳng có gì khó hiểu, hai năm trước Long Khánh mới từ một hoàng tử suốt ngày nơm nớt lo sợ, chịu hết ủy khuất, lên làm hoàng đế chí tôn. Trong lòng hắn chỉ muốn báo thù phụ hoàng, bồi thường khổ nạn cả mình. Cho nên mới đồng ý với di chiếu phủ định Gia Tĩnh toàn diện này.
Song nay Long Khánh tuy lười biếng chính sự, nhưng không ai phủ nhận được, hắn đã đứng ở lập trường một hoàng đế nhìn vấn đề một cách chững chạc. Triệt để phủ nhận tiên đế là bôi bẩn hoàng gia, làm người ngoài chê cười hai cha con họ.
Bất kể thế nào, thể diện hoàng gia là quan trọng nhất, cho nên Long Khánh hối hận vì sao trước kia mê muội nghe Từ Giai oán trách phụ hoàng?
Tiếp đó hận luôn Từ Giai xúi bẩy mình:" Ta còn trẻ không hiểu chuyện, ông là các lão thác cô, chẳng lẽ cũng không hiểu chuyện? Để ta làm chuyện bất hiếu, rốt cuộc có mưu đồ gì?"
Cao Củng nắm chắc điểm Từ Giai bất kính với tiên đế, lên tiếng bất bình vì tiên đế, lấy tiếng hiếu cho đương kim, thắng là cái chắc.
~~~~~o0o~~~~~~
Khi bản tấu của Cao Củng đưa tới nội các, mặt ai nấy đều trở nên quái dị, nửa số đại học sĩ là học sinh của Từ Giai, hiện giờ Cao Củng công khai phủ định di chiếu, hành động Từ các lão đắc ý nhất đời, có khác gì triệt để phủ nhận Từ Giai?
Bất kể bọn họ ngầm thành thế nước lửa, đấu tranh sống chết với Từ Giai ra sao, nhưng ở trường hợp công khai, quyết không thể đứng cùng phía với Cao Củng, thậm chí còn nói vài câu bảo vệ Từ Giai, tránh bị chê cười....
Nhưng ai dám đối đầu với Cao Củng? Còn muốn có cơm ăn nữa không?
Lý Xuân Phương xem xong, nhìn sang ghế trống bên cạnh mình, mắng:" Tên giảo hoạt họ Thẩm, hiển nhiên sớm biết phong thanh, lấy cớ tuần thị kinh doanh trốn mất, làm bọn ta trốn không kịp."
Gặp chuyện khó nhằn, thủ phụ đi hâm mộ thứ phụ chuồn mất, truyền ra ngoài người ta sẽ cười rụng răng.
Trương Cư Chính cũng oán trách:" Lão Cao ông có muốn lập uy phong cũng phải trao đổi trước với ta chứ? Giờ làm ta trở tay không kịp, phải làm sao đây?"
Còn về phần Trần Dĩ Cần và Cao Nghi, thấy hai học sinh đều chẳng nói cho sư phụ, đương nhiên an tâm giả câm, xem vở kịch tiếp diễn.
Ánh mắt mọi người bất giác hướng về vị duy nhất có thể đấu với Cao Củng...
Chỉ thấy Triệu Trịnh Cát mặt tối đen, mắt nheo lại, quả nhiên đã tới mép bờ bùng nổ.
Cao Củng lại làm như không thấy, nói với Trần Dĩ Cần:
- Nếu không có ý kiến thì lão Trần viết lời phê đi, để ta đọc...
- Phê cái rắm.
Cao Củng còn chưa nói xong, Triệu Trinh Cát cảm thấy bị ngó lơ vỗ bàn đứng dậy, quát:
- Làm thế có khác gì bia gian đảng triều Tống?
"Bia gian đảng" là do Tống Huy Tông lệnh gian tướng Thái Kinh, đem đám Ti Mã Quang, Văn Ngạn Bác, Tô Thức gồm 309 người phản đối biến pháp Vương An Thạch khắc lên bia, ban hành thiên hạ, từ đó không ai dám chỉ trích triều đình nữa. Triệu Trinh Cát hiển nhiên so Cao Củng với Thái Kinh.
Nói xong Triệu Trinh Cát hầm hầm phát tay áo bỏ đi.
Thấy thế Cao Củng đành rời vị trí, đi ra đưa tay chặn Triệu Trinh Cát lại:
- Cần gì phải thế, chuyện gì cũng thương lượng được mà...
Xem ra câu kẻ ngang ngược sợ kẻ lỗ mãng, chẳng sai tí nào.
Triệu Trinh Cát cũng thấy mình bỏ đi chẳng phải trúng gian kế Cao Củng, hừ một tiếng về chỗ, không thèm nhìn ông ta.
Cao Củng cười khan:
- Bản tấu này hoàng thượng đã chuẩn, nội các lại không phê, há chẳng phải ép hoàng thượng hạ chỉ sao? Chuyện mà làm lớn lên, uy tín của nội các sẽ không có lợi.
Câu này đánh trúng chỗ yếu của mọi người, làm thần tử không thể khiêu chiến quyền uy của hoàng đế, nhất là chuyện hoàng đế còn chiếm lý...
Chẳng lẽ ngươi bắt kẻ làm con cứ đâm dao lên người cha mãi sao? Cho nên một khi Long Khánh nghĩ thông chuyện này, di chiếu tới ngày thành tro bụi không xa nữa.
- Ngươi thật vô sỉ.
Triệu Trinh Cát như mèo bị dẫm phải đuổi, nhảy bật dậy:
- Cố ý báo thù Từ các lão.
- Nếu như đạo sớ này không thông qua, ta sẽ dâng bản khác, tới khi đó không còn nói kín đáo như vậy nữa đâu.
Cao Củng vỗ bàn nhìn Triệu Trinh Cát:
- Năm xưa đại lễ nghị, ông cũng có mặt, hẳn biết vụ án này chẳng qua là tập đoàn quan văn của cha con họ Dương, mang Hiếu Tông hoàng đế ra làm cái cớ áp tiên đế còn chưa đứng vững chân, muốn khống chế triều cục. Tiên đế không chịu yếu thế, tập trung lực lượng đấu tranh với cho con họ Dương. Vị án này vốn chỉ là tranh đấu quyền lực, làm gì có thiện ác đúng sai? Còn đám quan viên liên quan chẳng qua là nanh vuốt cho phe mình, đấu khẩu vô nghĩa, làm gì có công lý?
Nói tới đó cười lạnh:
- Không biết ta đem cái này nói rõ với hoàng thượng rồi, người sẽ có cảm tưởng gì?
Triệu Trinh Cát giọng run run:
- Ngươi định đem quân thần đẩy vào hướng đối diện?
- Chẳng qua ta chỉ muốn nói cho hoàng thượng biết mà thôi. Thực ra ta cũng chẳng phải người lắm chuyện, cho nên mới bảo dừng chuyện an ủi tiền thần, nếu không đại lễ nghị thành sai sao? Vậy thì Minh Luân Đại Điển cũng nên bỏ, Hiến hoàng đế có phải cũng nên đưa khỏi thái miếu? Đại Minh này hoàng đế còn quyền uy nữa không?
Một loạt câu hỏi không thể trả lời đã triệt để khống chế cục diện, ngay Triệu Trinh Cát cũng thừa nhận, Từ Giai năm xưa làm thế để lại thóp cho người ta nắm, đành lui lại:
- Việc đó có thể dừng, nhưng di chiếu không thể phủ định. Bất kể ông nói thế nào, thứ đó có tên là Gia Tĩnh di chiếu, ban bố với danh nghĩa tiên đế, trong mắt người đời nó là di mệnh của tiên đế, ông luôn nói tránh để hoàng thượng mang tiếng bất hiếu, vậy càng không có lý nào phản đối di chiếu.
Lúc đó Cao Củng có cảm giác vác đá đập chân mình, đành gian nan gật đầu:
- Được...
Cuối cùng sau thỏa hiệp của hai bên, lệnh dừng an ủi chỉ dùng hình thức công văn phát đi, không biến thành thánh chỉ.
Nhưng giấy không gói được lửa, huống hồ cũng chẳng hề có ý gói lửa, hành động đó rất nhanh chóng được toàn triều biết tới. Chỉ cần biết Từ Giai dựa vào thi hành di chiếu mua chuộc được bao nhiêu lòng người, là biết Cao Củng chọc vào tổ ong lớn thế nào.
Tức thì tiếng chỉ trích vang lên không ngớt, nhất là đám được dựa vào di chiếu mà phục chức, cùng đám "hậu nhân trung lương" được ưu đãi, càng coi Cao Củng là gian tà.
Vương Thế Trinh kịch liệt phê bình:" Từ các lão với mục đích vỗ về trung thần, mới lấy danh nghĩa tiên đế tặng ấm, khiến thiên hạ trở nên tươi mát. Còn Cao các lão cưỡng từ đoạt lý muốn vấy bẩn Từ công, đoạt lợi ích của trung thần, dụng tâm thật ngoan độc."
Thế là mỗi ngày đều có cả đống người hùng hổ chặn đường đi làm của Cao Củng, lấy trứng thối ném vào kiệu của ông ta. Khiến cho một khoảng thời gian dài, mỗi khi Cao Củng xuất hành là Cẩm Y vệ phải mở đường trước.
Thẩm Mặc bày tò lo lắng với tình cảnh của Cao Củng, từng đế xuất muốn điều đình giúp ông ta, trừ bỏ tâm tình đối địch.
Thế nhưng Cao Củng nói:
- Không cần, đệ cứ đợi xem tiếp kịch là được.
Thẩm Mặc nhìn thấy rõ chiến ý ngụt ngụt cháy trong mắt ông ta, chửi thầm:" Cao Điên, ông chưa chơi đủ à?"
Cao Củng đúng là chưa chơi đủ, chuẩn xác mà nói ông ta vừa mới bắt đầu thôi..
Quả nhiên vài ngày sau ông ta lại kiếm được cơ hội.
Mùa thu là mùa lá rụng, cũng là mùa xử quyết phạm nhân trong năm, theo lệ hình bộ đem danh sách tử tù gửi lên nội các, phê xong do hoàng đế định đoạt...
Nội các chỉ quan tâm tới tài chính thu chi, quốc gia đại sư, chứ không phải là đám tử tù chờ chặt đầu, mà danh sách chi chít tên, chẳng ai biết người trên đó có đáng giết hay không, nên chỉ là làm cho có thôi.
Nhưng chuyện bị các đại lão coi là chuyện nhỏ đó bị Cao Củng tóm lấy, ông ta xem đi xem lại danh sách mấy lượt, cuối cùng nói:
- Mấy người này không giết được.
Nội các đại thần ngẩng đầu lên nhìn Cao các lão chỉ sợ thiên hạ không loạn, nghe ông ta nói tiếp:
- Vương Kim, Đào Thế Ân, Đào Phảng, Thân Thế Văn... Không được giết.
Triệu Trinh Cát dù sao năm ngoái mới về kinh, chuyện trước kia không rõ lắm, trầm ngâm:
- Nghe quen quen.
Nhưng những người khác đều biến sắc, những kẻ kia đều là đám phương sĩ cuối cùng bên Gia Tĩnh, theo di chiếu bị bắt vào ngục, tội danh "dâng bừa dược vật" hại chết tiên hoàng, theo Đại Minh luật, tội tử hình.
Chỉ là không ai biết rằng, đám phương sĩ này còn sống được tới hôm nay là phải cám ơn vị đại học sĩ phân quản hình danh, được người ta nhờ giữ chúng lại tới ngày hôm nay.
- Ông không chịu yên một chút được sao?
Sau khi biết nguồn cơ, Triệu Trinh Cát nổi giận:
- Không sinh sự thì chết à?
Cao Củng chẳng hề để ý tới Triệu lão phu tử đã tức tới lỗ mũi xì khỏi, nói với Lý Xuân Phương:
- Thủ phụ, mấy tên phương sĩ này chết không đáng tiếc, nhưng ngài đã nghĩ tới chưa, nếu lấy tội danh này giết chúng, chẳng phải xác thực tin đồn tiên đề dùng đan dược mà chết? Há chẳng phải nói, tiên đế không chết an lành?
Lý Xuân Phương nào dám tiếp lời, ném ngay củ khoai nóng cho Thẩm Mặc:
- Thẩm các lão thấy sao?
- Cao các lão nói có ý lắm.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chuyện liên quan tới thanh danh tiên đế, ta cần thận trọng.
- Pháp ti đã xét qua rồi, có gì phải thận trọng.
Triệu Trinh Cát cực kỳ khó chịu Thẩm Mặt và Cao Củng vào hùa với nhau.
- Hồ sơ khi đó ta cũng xem qua.
Trương Cư Chính chậm rãi nói:
- Thẩm tra đúng là hơi cẩu thả, ta cũng kiến nghị tam pháp ti xét lại, không thể làm tiên đế bị oan.
Hắn đã nhìn rõ Cao Củng và Thẩm Mặc đã kết thành đồng minh, thêm vào hoàng đế đứng đằng sau, triều đường đã không ai cản được hai bọn họ nữa. Chuyện lần trước mình không đứng về phía Cao Củng, nếu lần này không lên tiếng, đắc tội với cả hai đằng, sẽ bị Thẩm Cao đẩy sang bên lề...
Thấy nhiều người tỏ thái độ như thế, Cao Nghi cũng nói:
- Tra, chuyện này phải tra rõ, càng triệt để càng không ai có thể lấy nó ra tác quái. Tùy tiện giết người là thiếu trách nhiệm với lịch sử với triều đình.
- Vậy thì tra...
Ý kiến nội các ngả về một phía, Triệu Trinh Cát biết mình phản đối cũng vô ích, nhưng ông ta dùng ánh mắt phun lửa nhìn Cao Củng, như muốn khoét thủng hai lỗ trên người Cao Củng vậy.
Trong di chiếu có ba việc, một là phục hồi các đại thần tiến ngôn mà đắc tội, hai là dừng xây dựng cung quan, ba là luận tội đám phương sĩ.
Ba việc này là chính tích của Từ Giai, hiện việc đầu đã bị dừng, nếu còn lật lại vụ phán quyết phương sĩ, vậy trừ việc xây dựng hao tiền mệt dân không thể không chấp hành, tất cả chính tích của Từ Giai đã bị Cao Củng lật nhào.
Triệu Trinh Cát thấy mình còn nhịn, là có lỗi với gửi gắm của Từ Giai, càng làm bản thân bì dồn vào bờ vực, cần phải phản kích rồi.
Được nội các thúc đẩy mạnh mẽ, ngày xử lại vụ án Vương Kim mau chóng được xác định.
Mọi người đều biết, nếu như lật lại vụ án này, quốc sách mà Từ Giai định ra sẽ bị lật nhào hết, sức ảnh hưởng của ông già ở Tùng Giang kia với triều đình sẽ giảm mạnh, ít nhất bề ngoài không ai dám lấy quy định trước kia của ông ta ra nói nữa, Từ đảng cũng rất có khả năng mất đi khống chế triều chính.
Điều này có nghĩa là gì mỗi phần tử Từ đảng đều rất rõ, trong cái tổ vỡ làm gì có trứng lành? Từ đảng đã tới thời khắc nguy hiểm nhất.
Dưới tầng tầng áp lực, Triệu Trinh Cát không ngồi yên được nữa, hôm đó lấy danh nghĩa tẩy trần cho Chu Hành vừa ở đề về, mời ông ta tới nhà ăn cơm thương lượng.
Hôm đó Triệu Trinh Cát về nhà sớm, bảo nhà bếp sửa soạn một bàn tiệc thịnh soạn đợi Chu Hành tới, ai ngờ đợi mãi, tới khi cơm canh nguội cả Chu Hành mới ngồi kiệu đi cửa sau vào phủ.
Hiếm khi mời khách, khách lại đến muộn, nếu là trước kia Triệu Trinh Cát đã thể hiện hết khó chịu ra mặt, nhưng hiện giờ là thời kỳ phi thường, ông ta đành miễn cưỡng nặn ra nụ cười:
- Sĩ Nam, sao đến muộn thế? Phải phạt ba chén.
Chu Hành mặc thường phục, trên người còn mang tàn lưu vẻ mệt mỏi trên đê mang lại, nghe thế cười yếu ớt:
- Thế nào cũng phải đợi trời tối mới tiện đi.
- Đây không giống lời Chu Sĩ Nam...
Triệu Trinh Cát cố làm ra vẻ thoải mái:
- Khi ta lần đầu bị Nghiêm Tung lưu đầy, ông tiễn ta ba mươi dặm trước mặt mọi người, đâu có sợ ai
Chu Hành nghe thế thần thần, nhớ lại thời thanh niên nhiệt huyết, lắc đầu:
- Già rồi, gan nhỏ rồi.
- Lời này ta không thích nghe.
Triệu Trinh Cát rót rượu cho ông ta:
- Sao ta thấy mình càng già càng mạnh, một có thể chống hai?
Chu Hành thầm nghĩ:" Mạnh miệng, vậy ông còn tìm ta làm gì?" Đương nhiên không thể nói ra, nhìn xung quanh hỏi:
- Bàn tiệc thịnh soạn thế này chỉ có hai ta ăn thôi sao?
- Còn ai nữa.
Triệu Trinh Cát trêu:
- Hay là ta sai người đi kiếm vài tiểu nương tử, hát ca rót rượu cho chúng ta?
- Thôi.
Chu Hành cười khổ:
- Lúc này ông tìm ta khẳng định là có chuyện, tâm tư đâu uống rượu nghe hát. Ông đâu phải là loại người ấy.
- Đúng.
Triệu Trinh Cát tự cho thanh cao, không đụng vào nữ sắc, nói tìm ca kỹ chỉ chứng minh lòng ông ta bất an, bị Chu Hành nói toạc ra, Triệu Trinh Cát đỏ mặt nói át đi:
- Nào, nào, uống rượu...
Hai người uống rượu, không khí có chút trầm lắng, Triệu Trịnh Cát đi vào chính đề:
- Sĩ Nam, ông đã nghe nói tới chuyện xét lại vụ án Vương Kim chưa?
Chu Hành gật đầu:
- Cao Túc Khanh nói, giết đám Vương Kim là thừa nhận tiên đế chết không nhắm mắt, đây là tin mới ở kinh thành, ai mà không biết?
Triệu Trinh Cát mặt tối lại:
- Cao Củng có ý gì mọi người hiểu hết, Sĩ Nam, chúng ta không phản kích chỉ đành ngồi chờ chết thôi.
- Nội các nhiều người như thế mà để cho Cao Củng làm bừa sao?
- Đừng nói tới nội các, không ta lại tức điên lên.
Triệu Trinh Cát mặt trở nên khó coi:
- Nói ra trong 7 người có tới bốn là học sinh của Từ các lão, nghe qua thì ghê lắm, thực tế? Thủ phụ chỉ biết co đầu rụt cổ. Thứ phụ thì bày rõ cùng một bọn với Cao Củng... Hai đứa con tiểu thiếp này cũng đành đi, nhưng cả tên họ Trương được Từ các lão dốc toàn bộ tâm huyết bồi dưỡng cũng mắt qua mày lại với Cao Củng, không cách khi sư diệt tổ bao sa nữa.
Uống cạn chén rượu đặt mạnh lên bàn:
- Ài, ông nói xem, Từ các lão tinh minh cả đời, sao dùng nhiều kẻ trảo trở như thế?
- Tức là trong nội các ông bị cô lập rồi?
Chu Hành lòng trầm xuống.
- Không thể nói thế.
Triệu Trinh Cát xấu hổ nói:
- Trần Dĩ Cần là đồng hương của ta.
Chu Hành thở dài:
- Mạnh Tĩnh, còn chưa nhìn ra sao, đại thế không còn bên ta nữa.
- Đại thế cái rắm, ông đừng chỉ nhìn vào nội các, đừng quên ngôn quan đứng về phía chúng ta, còn các các bộ, địa phương, thực lực chúng ta vẫn hơn chúng.
- Đúng, ta thừa nhận, người của chúng ta còn nhiều, Cao Củng muốn thắng không dễ, nhưng quan trọng là, chúng ta có thắng nổi không?
- Chuyện này...
Triệu Trinh Cát không phải kẻ tự đại mù quáng, biết sau khi Từ Giai đi, đám học sinh đều mang lòng khác, ông ta sở dĩ ngang ngược như thế trong nội các há chẳng phải vì hư trương thanh thế cho Từ đảng?
Nhưng đối với Chu Hành, ông ta không thể che dấu được:
- Không thắng nổi.
- Vậy đấu đi đấu lại có ý nghĩa gì, cùng lắm làm triều đình thêm vài năm hỗn loạn.
- Ông nói gì thế?
Triệu Trinh Cát cảnh giác nói:
- Không phải ông ăn cây táo rào cây me chứ?
- Ta chỉ thấy, Đại Minh như cái thuyền rách, nếu người trên thuyền không hợp lực chèo chống tới khi thuyền laatj thì chẳng ai thoát được.
Lời của Chu Hành làm lòng Triệu Trinh Cát lạnh đi quá nửa, ông ta muốn Chu Hành đứng đầu đám thanh lưu phối hợp với mình, ai ngờ Chu Hành lại theo chiều hướng đầu hàng...
Nếu chẳng phải giao tình nhiều năm, biết Chu Hành là người cương chính, ông ta đã hoài nghi đối phương phản bội rồi, lạnh lùng nói:
- Sĩ Nam, Cao Củng chuốc thuốc mê gì cho ông mà ông chuyên môn tới dát vàng lên mặt hắn.
- Không phải thế, ta chỉ nghĩ Cao Củng đúng là một người có thể biến chuyện người khác không dám nghĩ thành hiện thực, Đại Minh hiện nay cần người như thế lèo lái mới có thể thoát khỏi khốn cảnh.
- Đủ rồi.
Triệu Trinh Cát không chịu nổi nữa, vỗ mạnh bàn, làm bát đũa rung lên, canh bắt hết cả ra:
- Cao Củng là loại người gì, nhìn hành vi gian tà gân đây của hắn là biết. Ông cho rằng ta vì tranh quyền đoạt lợi mới chuẩn bị đối đầu với hắn? Vậy ông quá coi thương Triệu Mạnh Tĩnh này.
Chu Hành đặt đũa xuống không nói.
- Từ các lão mạo hiểm đắc tội với đám phương sĩ, đại thần văn võ nhờ siểm nịnh được tiên đế đắc sủng, kiên trì ban bố di chiếu là vĩ đại nhường nào, ông cũng phải hiểu chứ? Tiên đế là người thế nào, ông cũng phải hiểu chứ? Nếu không di chiếu làm sao được lòng người như thế.
- Quốc gia hai năm qua có thể bình ổn quá độ, dần phục hồi nguyên khí là công lớn của di chiếu, công lớn của Từ các lão. Nếu để Cao Củng đạo lộn trắng đen, vấy bẩn di chiếu, đừng nói là có lỗi với Từ các lão, chỉ riêng với lương tâm, ông thấy có xứng không?
Chu Hành một lúc lâu mới nói:
- Ông nói đúng cả, nhưng sứ mệnh lịch sử của di chiếu đã hết, nếu còn tiếp tục thế này, chỉ trói buộc cải cách.
- Cải cách, cải cách, thì ra ông bị họ Cao truyền nhiễm rồi.
Triệu Trinh Cát vỡ lẽ:
Chu Hành thở dài:
- Không thể thương lượng hay sao?
- Không thể.
Triệu Trinh Cát trợn trừng mắt trâu:
- Pháp lệnh tổ tông hoàn thiện. Nếu để bọn chúng, à không các ngươi tự tiện sửa đổi, thế nào thiên hạ cũng đại loạn.
- Nhưng thiên hạ đã tới mép bờ đại loạn rồi.
- Nhảm nhí, trị nước lớn như nấu cá nhỏ, dù quốc gia có bệnh, cũng phải từ từ điều trị, ổn định là hàng đầu.
Chu Hành biết, đạo bất đồng bất tương vi mưu, nói nữa cũng vô ích, mặc Triệu Trinh Cát chửi bới đám Cao Củng một hồi rồi đứng dậy cáo từ.
- Không tiễn.
Triệu Trinh Cát mặt sương giá:
- Sau này cũng đừng tới nữa.
Chu Hành buông một tiếng thở dài rồi lên kiệu rời đi.
Chu Hành đi rồi, Triệu Trinh Cát ngồi lặng người, cuối cùng không áp chế nổi lửa giận càng lúc càng vượt, hất mạnh bàn an, cả phòng cơm canh tung tóe.
Triệu Trinh Cát không biết vì sao Chu Hành thay đổi, ông ta cũng chẳng muốn tìm hiểu, cho dù tất cả chiến hữu ngày trước thay đổi, ông ta vẫn còn mấy trăm ngôn quan, ngự sử hậu thuẫn, có thể chiến tới cùng.
Vì chính đạo thiên hạ tuyệt đối không lui.
Cùng lúc này cách đó mấy con đường, ở Thẩm phủ cũng đang tổ chức yến hội, nhưng không khí náo nhiệt hơn nhiều, tuần phủ Sơn Đông Tôn Quán về kinh, chuẩn bị thay Đường Nhữ Tập tiếp nhận tổng đốc Giang Nam, Thẩm Mặc liền mời đám đồng niên tới.
Đại lý tự khanh Tôn Phi Dương cũng tới, trong bữa tiệc hắn được gia đinh trong phủ gọi tới thư phòng, thấy Thẩm Mặc lấy cớ thay y phục, đợi ở đó.
Tôn Phi Dương biết Thẩm Mặc có việc tìm mình.
Thẩm Mặc biết tính lạnh lùng của hắn, liền không nhiều lời:
- Ngày mai hội thẩm, ta nghĩ huynh cũng biết vụ án này liên quan tới hướng đi triều đình mấy năm sau.
- Ta chỉ là Đại lý tự khanh, chủ thẩm là Mao bộ đường.
Tôn Phi Dương không có thiện cảm gì với hành vi ngang nhiên chơi đùa pháp luật này.
- Huynh hiểu lầm rồi, ý ta là huynh phải nỗ lực làm cho thật rõ, đừng sợ lực cản. Phía Mao bộ đường ta cũng nói như thế, cố gắng xử án công bằng, tất cả đã có ta gánh vác.
- Huynh quá lo rồi.
Tôn Phi Dương lúc này mới biết mình trách lầm Thẩm Mặc, cũng hiểu lo lắng của y, nói:
- Triệu tổng hiến sẽ lấy thế ép người, quấy nhiễu xử án sao?
- Chắc chắn.
Thẩm Mặc cau mày:
- Ông ta mà khùng lên, ta cũng phải tránh xa, chỉ sợ mọi người không chống lại.
- Ta sẽ tận lực, chẳng lẽ ông ta còn to hơn được công lý.
Hay cái là bên kia cũng nghĩ mình chiếm công lý, thật không biết đâu mới là công lý thật.
(thiếu phần 4 của chương này)
Chương 837: Tam kê báo hiểuVụ án Vương Kinh xét lại khiến trong ngoài triều xôn xao đúng như dự liệu, gần như tất cả mọi người, bao gồm cả phe thứ ba đều nhất trí cho rằng, Cao Củng xét lại vụ án này mục đích là để gán Từ Giai tội danh "giả soạn chiếu chỉ, phỉ báng tiên đế", để bôi xấu ông ta triệt để.
Lúc này ngay Thẩm Mặc cũng không thể im lặng được nữa, một là nếu y không làm gì sẽ bị người ta cho rằng khoanh tay ngồi nhìn sư phụ chết mà không cứu; hai là Cao Củng tiếp tục làm thế sẽ bị người người oán hận, mình cũng không bảo vệ nổi ông ta nữa.
Đúng vậy người đời chỉ thấy Cao Củng đánh đông dẹp tây mà không thấy vì phối hợp với ông ta, Thẩm Mặc đứng sau điều động bao nhiêu mối quan hệ.
Điều này Cao Củng hiểu rõ, không có Thẩm Mặc giúp mình chải chuốt những mối quan hệ rối rắm, ông ta căn bản không thể chém giết sảng khoái như vậy.
Hai người nói chuyện một buổi mới làm vụ án kia không liên lụy tới ông già đang nghỉ hưu ở Tùng Giang...
Thế nhưng Cao Củng liên tục tung ra những cú đấm mạnh đã triệt để chọc giận đối tượng ông ta muốn đả kích, đám người kia cuối cùng ý thức được, đây không phải là người làm theo quy củ....
Trong cuộc chơi chính trị mà bọn chúng trải qua trước đó, luôn chú trọng cái gọi là "làm người để lại một đường lui, ngày sau còn gặp mặt", dù sao lúc lên voi lúc xuống chó, ai mà biết khi nào mình bị vận may quay lưng.
Nhưng Cao Củng không thế, ông ta đã bày rõ quân trận, nhất định muốn triệt để xóa bỏ ảnh hưởng của ông già kia tại kinh thành, không đuổi tận giết sách Từ đảng không thôi.
Không thể nhịn được, không cần nhịn nữa, đám ngôn quan tích cực tìm kiếm chứng cứ, mỗi ngày nhiều hơn mười bản, ít bốn năm bản đàn hặc Cao Củng. Trong dân gian cũng thả ra tin đồn, Cao Củng nhận tiền của đám Vương Kim cho nên giữ mạng chúng, tạo thành ảnh hưởng lớn.
Người dân tin loại tin đồn này là vì phán quyết vụ án Vương Kim thực không thể làm người ta phục, không thể không hoài nghi động cơ của Cao Củng có thuần chính hay không? Tiếp đó nghi ngờ nhân phẩm của ông ta, tin tưởng lời nói xấu kia.
Cao Củng cũng không thua kém, thân tín của ông ta liên tục nổ pháo biện hộ cho vụ án Vương Kim, cho rằng đây là thắng lợi của pháp luật. Còn những kẻ chỉ trích Cao Củng, chẳng qua sợ chân tướng vạch trần, từ đó khiến việc nhơ nhớp của chúng bại lộ, mũi giáo chĩa thẳng vào Triệu Trinh Cát.
Quan hệ giữa hai vị các lão xấu đi trông thấy, thậm chí ngay cả hòa khí bên ngoài cũng không làm được nữa. Chỉ cần là cái người này ủng hộ là người kia phản đối, mỗi ngày cãi nhau ba bận, thậm chí về sau phát triển tới mức động thủ, Cao Củng thiếu chút nữa ném nghiên mực vào đầu Triệu Trinh Cát, lão Triệu đấm Cao Củng thiếu chút nữa "lỗ mũi ăn trầu", làm người ta dở khóc dở cười...
Chẳng trách được, đều là người thẳng tính, bảo bọn họ học kiểu khẩu phật tâm xà như Từ Giai, Thẩm Mặc, bọn họ không học nổi.
Ai cũng biết hai vị này không thể cùng tồn tại nữa, tức thì không khí chiến tranh bao phủ nội các, mọi người chờ đợi thời khắc hai người quyết sống mái nữa thôi.
Thế nhưng người đầu tiên không chịu nổi là Trần Dĩ Cần, Trần các lão mang phong cách quân tử cổ này có dị nghị lớn vớ việc xét xử lại vụ án Vương Kim, dâng thư yêu cầu ngừng phúc thẩm, giương cao chính nghĩa.
Hắn không phải là Thẩm Mặc, đương nhiên làm thế là đã chọc giận Cao Củng, có điều Cao Củng niệm tình xưa, lại không muốn kẻ địch qua nhiều nên ngó lơ.
Bên kia Triệu Trinh Cát lại hạ quyết tâm quyết chiến tới cùng với Cao Củng, Trần Dĩ Cẩn khuyên không nổi, nhìn thấy nội các sắp lún vào vũng bùn tranh đấu bất tận, Trần các lão chán nản, thêm vào con hắn đã trúng tiến sĩ, nên càng thêm kiên định quyết tâm "bỏ chuyện thiên hạ, về vui điền viên".
Nói đi là đi, Trần Dĩ Cần dâng liền tám bản tấu từ chức, Long Khánh thấy không giữ nổi nữa, đành ban thưởng, rơi lệ tiễn Trần sư phụ đáng kính.
Trần Dĩ Cẩn trước khi đi nói những lời làm Long Khánh xúc động lớn, khiến hắn luôn đặt mình ngoài cuộc tranh đánh của hai hổ đã hạ quyết tâm làm người hòa giải...
Long Khánh mời hai người Cao, Triệu tới ăn cơm, nói:
- Hai khanh đều là lão thần đức lớn định quốc an bang, triều đình có hai vị trông coi, trẫm có thể yên chí lớn. Nghe nói hai vị có chút chuyện không vui, trẫm hết sức lo lắng, ăn không ngon ngủ không yên, đành mời hai khanh tới để hòa giải, chuyện cũ bỏ qua, sau này chung vai góp sức, cùng quản tốt nhà cho trẫm, có được không?
Hoàng đế đã nói đến thế rồi, hai người đâu dám nói không, đành vâng dạ, thậm chí uống với nhau ba chén, nặn ra nụ cười còn khó coi hơn khóc...
Thế nhưng nếu lời hòa giải có tác dụng thì còn cần quân đội làm gì? Dù người hòa giải là hoàng đế cũng vô dụng, vì một núi không thể chứa hai hổ, câu tục ngữ ai cũng thuộc nằm lòng này là chân lý ngàn đời không đổi, đang tín hơn cả lời lão Khổng...
Cao Củng và Triệu Trinh Cát chưa từng có ý định hòa giải.
Có điều Cao Củng biết tính khí của Long Khánh, mặc dù vẫn cấu véo với Triệu Trinh Cát ở Cao Củng, nhưng không làm phiền tới chỗ hoàng đế nữa.
Nhưng Triệu Trinh Cát không hiểu chuyện này, cãi nhau ở nội các không lại họ Cao, liền sai đám thủ hạ dâng tấu, còn tự lừa mình lừa người nói là "ta không quan được người dưới làm gì"... Vì thế để mặc thậm chí ngầm xúi bẩy cho đám ngôn quan chửi mắng Cao Củng không còn ra thể thống gì.
Cao Củng không sợ, nói đùa à, năm ngoái ta bị hai kinh mười ba tỉnh đàn hặc vẫn sống trơ trơ, chút hỏa lực này chẳng đủ gãi ngứa.
Thấy bao nhiêu bản tấu dâng lên mà như muối bỏ biển, tan biến không vết tích gì, đám ngôn quan không chịu, có ngự sử Diệp Mộng Hùng dâng sớ yêu cầu hoàng đế không được bao che Cao Củng nữa, tránh làm lòng người thiên hạ nguội lạnh.
Bản tấu này dâng lên, Cao Củng không im lặng nữa, lập tức cầm lấy bản tấu đi tìm Long Khánh, quỳ xuống nói:
- Bệ hạ, thần đã biết bọn chúng không thần trở về, giờ tới bệ hạ cũng bị trách lây rồi.
Long Khánh xem tấu xong lửa bốc ngùn ngụt:
- Quả nhiên Từ các lão đã đi, nhưng đám âm hồn này không chịu tan. Xem ra không dùng thủ đoạn sấm sét, không trừ được cái thói này.
Từ khi đăng cơ cho tới nay, hắn bị đám ngôn quan hành cho đến khổ, sớm căm ghét đám người này lắm rồi, giờ thấy chúng lại muốn đuổi Cao sư phụ đi, thực sự nổi giận hỏi:
- Cao sư phụ đám người này nên xử ra sao?
Cao Củng muốn bắt cố thả:
- Thần cho rằng, hoàng thượng chỉ trách mắng nghiêm khắc là được.
- Thế chẳng phải quá nhẹ sao?
Lời Long Khánh sớm trong kế Cao Củng rồi, nghe vậy hơi cau mày hỏi lại:
- Theo hoàng thượng phải xử trí thế nào?
- Hắn dám ức hiếp sư phụ như thế, trẫm giết hắn vẫn chưa hả giận.
- Không thể.
Cao Củng vội nói:
- Như thế thành toàn cho mỹ danh của hắn, còn quân thần chúng ta lại bị hiểu lầm.
- Nhưng không nghiêm trừng đám ngôn quan sẽ càng ngang ngược.
- Hoàng thượng nói phải, thần ở quan trường hơn hai mươi năm, thấy thói đời ngày càng đi xuống, lòng đau như cắt...
Biết sư phụ sắp có bài phát biểu dài, Long Khánh ngậm miệng lại, yên tĩnh nghe ông ta nói:
- Kỳ thực từ thời khai quốc tới nay, lề thói Đại Minh ta rất tốt, chỉ là tiên đế tu huyền, đem hết quốc sự cho Nghiêm Tung xử lý. Hai cha con chúng mua quan bán tước, bài xích trung lương, khiến cương thường đi xuống, chính lệnh không thông
- Lâu dần như thế khiến trung thần trục xuất nghỉ hưu, đám tiểu nhân cơ hội đắc lợi..
Cao Củng đau đớn nói:
- Lại nói Diệp Mộng Hùng chỉ dâu mắng hòe, châm chọc hoàng thượng, có đủ lý do để trị tội hắn. Thế nhưng quan trọng là hạng đầu cơ như Diệp Mộng Hùng không phải là thiểu số mà là đa số. Nếu không làm trong sạch khoa đạo ngôn quan, hôm nay xử phạt một tên Diệp Mộng Hùng ngày mai sẽ nhảy ra bảy tám tên Trương Mộng Hùng, Lý Mộng Hùng, dâng bản tấu loạn xạ làm nhiễu loạn triều chính...
Long Khánh nghe xong vỗ tay nói:
- Sư phụ chỉ ra tệ nạn triều đình, trẫm rất tán đồng. Không cần nói nhiều, cứ nói tiếp theo lại bộ chấn chỉnh lề thói suy đồi này ra sao đi.
- Thần nghe nói năm ngoái hoàng thường từng hạ chiếu muốn khảo sát ngôn quan, song bị Từ Giai ngăn lại?
Cao Củng biết mà vẫn cố ý hỏi:
- Đúng là có chuyện này, giờ xem ra Từ các lão và chúng là một, đương nhiên không muốn trẫm khảo sát.
- Giờ Từ các lão không còn nữa, hoàng thượng có gì phải cố kị.
- Đúng thế...
Long Khánh choàng tỉnh:
- Lần này không ai cản được trẫm chứ hả? Làm luôn một chuyến kinh sát nữa.
- Kinh sát?
Cao Củng động lòng, nhưng ông ta biết phải tiến hành từng bước, hạ đám ngôn quan rồi hẵng hay:
- Không được, các nha môn đều có việc thực, khảo sát một cái là mấy tháng bất an, không làm liên tục được. Còn khoa đạo ngôn quan thì không có việc thực, khảo sát không rắc rối gì, huống hồ kia đạo nắm phong hiến triều đình, giám sát bách quan. Trước tiên chỉnh đốn bọn chúng xong, lại để chúng giám sát bách quan, lề thói sẽ có một khởi đầu mới tốt đẹp.
- Sư phụ lão thành mưu quốc, người về đi, trẫm lập tức thảo chiếu khảo sát khoa đạo.
Tháng 10 năm Long Khánh thứ 2, Cao Củng đề xuất khảo sát ngôn quan, tin tức mọc cánh bay đi, không ai không kinh ngạc.
- Năm ngoái mới kinh sát xong, giờ lại kinh sát cái gì nữa?
Không ngoài dự liệu Triệu Trinh Cát nổi đóa ngay.
- Chuyện gì chẳng có trường hợp đặc biệt.
Cao Củng hừ một tiếng:
- Hữa nữa không phải khảo sát toàn bộ, mà chỉ ngôn quan thôi.
- Quá đáng lắm rồi.
Triệu Trinh Cát không nhịn nổi nữa:
- Ai chẳng biết năm ngoái ông bị ngôn quan kéo rót đài, giờ mới lên đã đề nghị khảo sát khoa đạo, lấy công báo thù riêng quá rõ đấy.
- Vậy là ông nhầm rồi.
Mắt Cao Củng lạnh xuống:
- Ta dâng bản tấu này là ý của hoàng thượng. Năm ngoái vì vị sư phụ tốt của ông muốn bao che ngôn quan, nên phản bác lại chuyện này. Hiện giờ đã qua một năm sao không thể đề xuất. Hơn nữa, chỉ khảo sát sai phạm thôi, nếu ngôn quan tự hỏi không thẹn với lòng thì có gì phải sợ.
- Tóm lại là không được.
Triệu Trinh Can đuối lý giở bài cùn.
- Vậy xem xem hoàng thượng nói sao nhé.
Triệu Trinh Cát là Tả đô ngự sử, lãnh tụ ngôn quan toàn quốc, tất nhiên không muốn thấy đám tiểu đệ bị chỉnh, mặc dù không thể cản trở Cao Củng, nhưng ông ta cũng dâng tấu ngôn từ khẩn thiết hợp tình hợp lý, mong hoàng đế không nên tùy tiện khảo sát.
Thấy ông ta dâng tấu, Cao Củng lo đám học sinh của mình dao động, lại dâng một bán tấu nói với Long Khánh, hoàng thượng đã quyết thì tuyệt đối không thể thay đổi. Hơn nữa đãm ngôn quan hiện nay thành bọn "ưng khuyển sài lang", phải rửa sạch bổ xung máu mới mới có được tác dụng ban đầu.
Ở chỗ Long Khánh, lời của Cao Củng hiển nhiên có sức nặng hơn Triệu Trinh Cát, huống hồ hoàng đế cuốn muốn cho đám ngôn quan đáng ghét một bài học, cho nên cuối cùng hạ chỉ tiến hành khảo sát.
Ai cũng biết giờ quyết chiến đã tới.
Nhìn bề ngoài thế lực hai bên cân bằng, cả hai vị đều là đại học sĩ, một nắm nhân sự, một nắm ngôn luận, đều là vị trí có quyền bính cực lớn...
Có vẻ thắng thua khó đoán.
Có điều hiện ngôn luận đang bất lợi lớn, mặc dù Long Khánh cũng biết "thuốc đắng dã tật", nhưng có thằng điên nào thích bị chửi mỗi ngày không?
Cao Củng nói không sai, Từ Giai coi trọng ngôn luận, khiến đám ngôn quan đầu cơ, đón ý số đông, thậm chí dám cả gây sự với hoàng đế kiếm lấy vốn liếng chính trị.
Từ chuyện ăn uống, tới sinh hoạt phu thê của hoàng đế không có gì bọn chúng không dám quản. Long Khánh lành tính cũng bị bọn chúng chửi phát điên, trước còn có Từ Giai nên đành nhịn, nhưng giờ lão Từ không còn, hoàng đế lại có Cao Củng chống lưng, làm sao không đòi nợ cho được.
Cho nên lần này vì tấu chương Diệp Mộng Hùng thiếu thỏa đáng, Long Khánh làm lớn lên, không qua nội các, trực tiếp hạ chỉ:" Khoa đạo xưa nay càn rỡ, hỏng triều cương" yêu cầu triệt để khảo sát. "Suốt ngày bới móc người khác, xem các ngươi có vấn đề không?" Long Khánh khoái trá nghĩ.
Đây là cuộc tổng thanh toán của Long Khánh với ngôn quan, nhưng vui sướng nhất lại là Cao Củng, ông ta hận ngôn quan không phải ngày một ngày hai nữa, chính đám náy ôm chân thối của Từ Giai hè nhau kéo đổ ông ta. Lần nay xuất sơn, Cao Củng chỉ đợi cơ hội rửa sạch sỉ nhục.
Theo lệ, khảo sát kiệu này do lại bộ nắm khảo sát, ngự sử giám sát, vừa vặn là chức trách của hai người Cao - Triệu, nên vở kích này nhất định rất náo nhiệt...
Bên phía Triệu Trinh Cát thấy không cản được hoàng đế nữa, đánh dàn trận đợi sẵn, quyết tranh từng mảnh đất. Khảo sát vừa bắt đầu, hai người lập tức xung đột trực tiếp, đôi khi vì phán xét một người mà cãi nhau khô cổ họng...
Lão Triều lần này liều rồi, bất kể thế nào cũng phải bảo vệ tiểu đệ của mình.
Nhưng so liều thì Cao Củng còn thua ai được, kiên quyết không thỏa hiệp.
- Ta nói không đúng à? Lão già ngươi đừng mơ cho hắn vào danh sách.
- Ta nói sai sao! Lão Triệu Điên, muốn bao che hắn à, đừng nằm mơ nữa.
Hai vị đại lão hoàn toàn mất đi lý trí...
Túi khôn hai bên cũng hoạt động hết công suất, Cao Củng nhanh chóng đưa ra một danh sách bãi chức, đem hết thân tín của Triệu Trinh Cát đặt lên trên cùng:" Triệu Điên, ta sẽ cho ngươi thành con lừa chết đuối."
Triệu Trinh Cát cũng đưa ra một danh sách bãi chức, trên đồ đen "cẩu đảng" của Cao Củng quét sạch:" Xem oắt con ngươi làm thế nào, tưởng thường ngày ta mù câm điếc hay sao?"
Hai bên tức thì bế tắc, cả đám đít tên nào cũng dính phân, cách chức ai cũng không oan uổng... Nếu chấp hành hai bản danh sách này thì đánh nhau thành vô nghĩa rồi.
Thấy hai bên giằng co mãi chẳng ra thể thống gì, Lý Xuân Phương đành ra mặt khuyên:
- Hai vị đại ca, tiếp tục thế này thành ra gì nữa, có gì thong thả nói, thong thả nói.
Kỳ thực cả hai vị đều vào thế cưỡi hổ rồi, giờ thấy có thang, sao chẳng trèo xuống?
- Ông buông trước đi.
- Vì sao không phải ông trước?
- Vậy chúng ta cùng buông, ta đếm.. Một... Hai...
- Gượm đã, ta có điều kiện...
Cuối cùng hai bên đều không truy cứu người của nhau nữa.. Nhưng Cao Củng có điều kiện phụ:
- Đám Vương Bát Đản trước kia giúp Từ Giai hại ta, giờ lại không quy thuận ông, ông đừng quản chúng.
Lúc này khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia đã thể hiện ra, họ Triệu thờ Nho gia tin họ Cao thờ Pháp gia sẽ giống như nước Tề ngu xuẩn thời chiến quốc, vứt bỏ minh hữu cầu an...
Cao Củng được Triệu Trinh Cát ngầm chấp nhận, thi triển thần uy, cách chức liền 47 tên ngôn quan....
Đán Vương Kỳ, Hác Kiệt những nhân vật uy phong thời Từ Giai nắm quyền đều bị Cao Củng đuổi sạch..
Thủ đoạn vô tình bá đạo của Cao Củng làm tất cả mọi người không rét mà run, thấy mỗi ngày số quan viên bị cách chứng tăng lên, ngay cả Lý Xuân Phương cũng không nhịn được, uyển chuyển đề xuất:
- Vì Tránh chấn động triều đình, nên chăng bớt số quan viên cách chức xuống?
Thế nhưng Cao Củng chẳng thèm đếm xỉa gì tới vị thủ phụ có mỗi cái danh này, làm Lý Xuân Phương đành chịu.
Lý Xuân Phương lại tìm Thẩm Mặc và Trương Cư Chính, mong hai người họ khuyên nhủ Cao Củng, nhưng Thẩm Mặc sẽ không lên tiếng, vì thanh trừng ngôn quan là mắt xích quan trọng trong kế hoạch cải cách, Cao Củng chủ động gánh lấy, Thẩm Mặc sao có thể can được.
Thấy y không đồng ý, Lý Xuân Phương ủ rũ nói:
- Nội các suốt ngày đấu đá sống chết, ta từ quan cho xong.
Trương Cư Chính đột nhiên lên tiếng:
- Như thế có khi còn bảo toàn được thanh danh...
Lý Xuân Phương không khỏi ngạc nhiên, tiếp đó gật đầu, không quản vào chuyện này nữa.
Triệu Trinh Cát sở dĩ ngầm cho Cao Củng bãi chức một bộ phận là vì ông ta cảm nhận được áp lực cực lớn từ hoàng đế, đánh hi sinh đám không quan trọng, làm dịu lửa giận của hoàng đế.
Thế nhưng hành động này của ông ta lọt vào quan viên trong triều bị hiểu lầm thành, dưới áp lực mạnh mẽ của Cao Củng, Triệu các lão đã không chống đỡ nổi nữa...
Triệu Trinh Cát vốn tưởng quan viên hiểu được chiến lược rút lui của mình, nhưng quên mất quan trường là nơi không thiếu kẻ "gió chiều nào theo chiều đó"...
Cho nên ban đầu Triệu Trinh Cát không lui một bước đám người này còn có thể đứng nguyên, không đặt cược vào bên nào, nhưng một khi ông ta lộ ra thế bại, bọn chúng sẽ vội vàng đổi phe, thành thủ hạ đắc lực của đối phương.
Tức thì Cao Củng vốn gần như không có trợ lực trong khoa đạo được một đám ngôn quan quy thuận, trong đó có Lục Thụ Đức, Tống Chi Hàn, Trình Văn, Đồ Mạnh Quế được xưng là "tứ đại kim cương"...
Thành lũy bị công phá từ bên trong, lại có tứ đại kim cương hỗ trợ, Cao Củng như gió mạnh quét lá, chỉ cần là kẻ không được lão Triệu bảo vệ là diệt hết.
Kẻ nào lên tiếng thay cho người bị bãi chức là đàn hặc kẻ đó, nhắm kẻ nào đánh bại kẻ nấy, đúng là cuộc thảm sát trên quan trường.
Thấy thế cục ngả hẳn sang một bên, Cao Củng biết thời khắc tổng công kích đã tới, phái ra Hàn Tiếp tân cấp sự trung lại khoa.
Hàn Tiếp chẳng phải hạng phản bội hàng địch mà là đích hệ của Cao Củng, hiện thành đứng đầu lục khoa là nhờ ân sư nâng đỡ, sao có chuyện không lấy mạng báo đáp? Hắn xông thẳng vào trận địch lấy thủ cấp tướng soái.
Mặc dù Triệu Trinh Cát làm quan thanh liêm, cũng không có lỗi lầm gì, nhưng với cấp sự trung lấy cáo trạng làm nghề kiếm cơm, tội danh chưa bao giờ là vấn đề, Hàn Tiếp đàn hặc Triệu Trinh Cát trong quá trình khảo sát là phụ thần tầm thường vô dụng lại ngang ngượng, mong hoàng thượng quở trách bãi miễn, giương cao pháp điển.
Thấy mình bị đối phương lừa một vố đau, Triệu Trinh Cát lòng đầy bi phẫn dâng tấu tự biện hộ.
"... Cao Củng bẻ cong thánh ý, phóng túng kẻ ác ngang nhiên trước mặt mọi người, nếu thần không không đứng ra nói thì thành phụ thần vô dụng thật rồi. Người như Cao Củng mới là ngang ngược. Họ Hàn chẳng phải muốn bãi chức thần sao? Được, nhưng mong hoàng thượng trước khi đuổi thần, thu lại quyền của Cao Củng trước, ngàn vạn lần đừng cho ông ta đại quyền, khiến ông ta lôi bè kết cánh.."
Giỏi, muốn quyết chiến trận cuối với ta rồi sao?
Cao Củng lập tức đâng tấu đáp lại, nội dung bình thường, nói Hàn Tiếp đàn hặc Triệu các lão là hành vi cá nhân, không phải do thần sai phái, hơn nữa thần cũng không phóng túng kẻ ác v.. v..
Cuối cùng ông ta phẫn hận viết:" Nếu Triệu các lão không ưa thần đến thế mong hoàng thượng bãi chức thần cho vừa lòng Triệu các lão!"
Thế là bắt hoàng đế quyết rồi -- Không phải ông ta đi thì thần đi. Hai con hổ không thể ở chung một chuồng.
Nếu là một vị quân vương cần mẫn sẽ đi công tác cho hai người:" Đều là đại thần rượng cột, tay phải hay tay trái trẫm cũng cần, thôi thì dĩ hóa vi quý đi..."
Nếu là bạo quân kiểu tiên đế Gia Tĩnh, khẳng định có thể đầy hai con trâu này đi được bao xa cho đi xa bấy nhiêu, dám uy hiếp hoàng đế à? Chán sống rồi.
Thế nhưng Long Khánh là tên lười, đối với thần tử không có tình cảm gì mà đã khuyên bảo rồi không nghe thì không giữ nữa.
Chiếu thư mau chóng đưa xuống, trong đó chẳng nói gì tới Triệu Trinh Cát, chỉ bảo Cao Củng:" Khanh trung thành phò tá, làm việc công chính, là cánh tay trái phải của trẫm, sao từ chức được? Cứ làm tốt đi, từ chức tuyệt đối không được phê chuẩn."
Hoàng đế chỉ giữ Cao Củng mà chẳng một lời nhắc tới mình, Triệu Trinh Cát không biết giấu mặt vào đâu...
Đám quan viên đợi tin tức cuối cùng xác định được ai là người thắng cuối cùng rồi.
Triệu Trinh Cát sao chịu được nỗi nhục này? Liền dâng liên tiếp bốn bản tấu, cuối cùng cũng được cho từ chức, lúc này tuy trời băng tuyết giá, nhưng ông ta không mặt dày ở lại tới mùa xuân mới đi như Từ Giai, mà dứt khoát một mình lặng lẽ rời kinh thành.
Triệu Trinh Cát đi, Lý Xuân Phương hoàn toàn mất đi đồng minh, nổi lòng muốn quy ẩn. Qua năm mới lấy lý do sức khỏe không tốt, dâng tấu xin từ chức, hoàng đế tất nhiên không cho.
Khi ông ta định tiếp tục dâng tấu thì đám Sơn Tây khuyên dừng, tuy ông ở trong ổ lang sói, nhưng không thể đi vào lúc này, nếu ông đi, Tử Duy của bọn ta sẽ ra sao?
Vì đại cục Lý Xuân Phương không nhắc tới chuyện từ chức nữa.
Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, đám ưng khuyển quy thuận Cao Củng đang say máu sao chịu bỏ qua hòn đá ngáng đường lớn nhất của Cao các lão?
Vì thế đầu tháng 2, cấp sự trung Vương Trinh đàn hặc Lý Xuân Phương, tiếng xin từ chức nhưng chỉ dâng tấu một lần là thôi, chẳng hề có thành ý. Nói Lý Xuân Phương muốn thăng quan cho đệ đệ, nên mới lưu luyến quyền vị nội các, lại nói hành vi của cha hắn tại quê không ra gì, Lý Xuân Phương khó tránh khỏi trách nhiệm.
Đường đường thủ phụ đương nhiên không thể nói đi là đi, hoàng đế một mặt chỉ trích Vương Trinh kinh suất nói càn, một mặt an ủi Lý Xuân Phương.
Nhưng tiếp ngay đó đám Trình Văn lấy vụ án Hồ Tôn Hiến năm trước ra nói, chỉa chẳng vào Lý Xuân Phương có vai trò không vẻ vang gì trong vụ án này.
Lý Xuân Phương vốn đã chán nản, càng không chịu nổi chuyện xấu bị bới lên, thế là dâng liền năm tấu chương từ chức, thấy hắn đã quyết, Long Khánh đành phê chuẩn...
Cao các lão quay lại chưa tới nửa năm, liền có ba vị các lão rớt đài, sắc chiến đấu mạnh mẽ tới mức làm người người giận dữ, chỉ là hiện giờ còn lại các đại thần lần lượt là Thẩm Mặc, Trương Cư Chính, Cao Nghi, Cao Củng, dù từ thứ bảy thành thứ tư, nhưng bét vẫn là bét.
Muốn làm thủ phụ Cao các lão phải hạ thêm ba vị nữa.
Cao đảng ngày càng lớn mạnh sĩ khí ngụt ngụt tên nào tên nấy xoa chân mua tay, hô hào muốn vì Cao các lão hạ liền ba thành, đưa ông ta lên thủ phụ...
Nhưng tựa hồ nếu theo quy củ, hiện giờ tới lượt Thẩm các lão làm thủ phụ rồi.
~~~~~~~~o0o~~~~~~~~~~
- Ta đương nhiên không làm thủ phụ...
Hiếm lắm được một ngày hưu mộc, tháng ba mùa xuân, ánh nắng ấm áp, hoa cỏ mơn mởn là thời tiết đẹp nhất trong năm ở kinh thành.
Hoa viên Thẩm phủ, có một giàn nho, phía dưới đặt một bàn trà, hai cái ghế trúc, trên bàn là ấm trà, lò than, trên ghế có hai nam nhân tuổi tác chênh nhau rất lớn. Người vừa nói câu trên là nam nhân trẻ, là thứ phụ Thẩm Mặc.
Người nhiều tuổi hơn mặc nho phục, mặt quắc thước, giống vị tiên sinh dạy học, là Cao Nghi. Nghe Thẩm Mặc nói thế ông ta không đáp ngay mà nhìn ấm trà bốc hơi nghi ngút trước mặt tới xuất thần.
Nói ra thân phận của Cao Nghi cũng khiến người ta phải suy ngẫm, năm xưa khi Thẩm Mặc ở Hàng Châu trúng Giải Nguyên, ông ta đang dưỡng bệnh ở nhà, thường tham gia các loại băn hội, còn chỉ dạy y cách làm văn, từ khi đó giao tình của hai người đã không tệ.
Chính vì quan hệ như thầy như bạn đó làm Cao Nghi không thể như quan viên khác bất chấp hình tượng ngả theo người thanh niên này.
Có điều gia tộc của ông ta lại nằm trong khu vực quyền lực hạch tâm của Thẩm đảng, sớm bị Thẩm Mặc buộc vào cùng trận tuyến.
Quan hệ phức tạp này làm giữa ông ta và Thẩm Mặc như đôi nam nữ "tình trong như đã mặt ngoài còn e".
Lần trước Thẩm đảng có một hạn ngạch nhập các quý giá, Thẩm Mặc chẳng hề do dự đem cho ông ta. Điều này khiến Cao Nghi vốn bị Từ Giai bài xích cảm kích vô cùng. Mặc dù ông ta vẫn giữ thanh cao như thời ở Hàng Châu, nhưng không hề nghi ngờ, ông ta và Thẩm Mặc đã ngồi chung một con thuyền.
Trước kia Cao Nghi không hiểu vì sao Thẩm Mặc coi trọng mình, giờ ông ta đang cảm thán tầm nhìn xa rộng của đối phương...
Vì Cao Củng và ông ta cùng là tiến sĩ năm Gia Tĩnh thứ 20, tuổi tác cũng tương đương, là một trong vài đồng niên hiếm hoi mà Cao Củng coi trong. Khi Cao Củng quay về, càn quét nội các, tình hữu nghị năm xưa này càng thêm giá trị...
Có điều Cao Nghi tuy là học giả ưu nhã, song ông ta không phải người chỉ biết thỏa hiệp rút lui như Lý Xuân Phương, ông ta là người kiên trì nguyên tắc, thanh danh cao, được trong ngoài triều kính trọng.
Từ khi Cao Nghi nhập các, Cao Củng đã dùng thân phận đồng niên lôi kéo ông ta, ngay Trương Cư Chính dù biết rõ ông ta được Thẩm Mặc tiến cử vẫn tỏ ra rất tôn trọng và nhiệt tình.
Nếu hỏi hiện nay trong nội các vị nào có thể giữ quan hệ tốt đẹp với ba vị còn lại, có thể giao đàm thoải mái, chắc chắn thuộc về ông ta.
Kỳ thực Cao Nghi vốn chẳng muốn chen vào cuộc đấu tranh chính trị làm người ta buồn nôn này, nhưng từ khi Long Khánh đăng cơ tới nay, triều đình đấu tranh không ngơi nghỉ, làm vị thuộc phái ôn hòa triệt để này cũng mất kiên nhẫn, ông ta phải đứng ra nỗ lực dẹp phân tranh, ổn định chính đàn.
Thế nhưng khi ông ta cẩn thận đem vấn đề mình lo lắng ra thì Thẩm Mặc đáp dứt khoát, làm ông ta không khỏi nghi ngờ y có thực lòng hay không?
Nhưng Thẩm Mặc không thể nói đùa ở chuyện này, nghĩ một chút thấy phải giải thích:
- Thứ phụ hiểu lầm rồi, ta không phải là thuyết khách của Tân Trịnh, chỉ là muốn tới hỏi, tiếp theo ngài định tính toán gì.
- Tránh người sang bên, nhìn Cao Củng lên thủ phủ...
Mặt trời chan hòa chiếu lên người Thẩm Mặc, làm y trở nên lười biếng, ngữ khí giống như đang tán gẫu vậy.
- Vì sao?
- Bởi vì ông ấy thích hợp hơn ta.
- Trong mắt ta, ngài càng có tốt chất hợp hơn ông ấy.
Cao Nhi dùng kính ngữ với Thẩm Mặc:
- Mặc dù nhiều nhân vật lớn không rõ, nhưng trong ba năm ở quê dưỡng bệnh, ta từng để tâm khảo sát bố cục của ngài ở Giang Chiết, không thể phủ nhận, ở Đại Minh không ai tinh thông bố cục mới hơn ngài.
- Chỉ một vùng đâu so được với một quốc gia.
Thẩm Mặc bình tĩnh nói:
- Huống chi ta không giải quyết bất kỳ một mâu thuẫn nào, chỉ có gắng hòa hoãn nó. Vốn tưởng kỳ trăng mật ít nhất phải kéo dài 50 năm, ai ngờ đông nam phát triển quá nhanh, mới chỉ 10 năm các loại mâu thuẫn đã có dấu hiệu bùng phát rồi...
Cao Nghi không hiểu mâu thuẫn đó là gì, nhưng cau mày:
- Nếu có mâu thuẫn thì ngài càng nên làm thủ phủ.
- Không.
Thẩm Mặc rót trà cho Cao Nghi:
- Thỏa hiệp và nhượng bộ vĩnh viễn không giải quyết được mâu thuẫn, khi nó tới mức độ nào đó, chỉ có dùng cường quyền tiêu diệt. Mà ta hiển nhiên không muốn làm thanh đao này...
- Cũng phải, nhứng chuyện này ngài làm không hợp. Nhưng không làm thủ phụ không thể quyết được, nếu như một số việc Cao các lão vượt quá giới hạn các đại gia tộc kia, ngài tự xử ra sao? ?
- Cho nên ta mới mời lão đại nhân xuất sơn.
Thẩm Mặc cười tủm tỉm:
- Tin rằng ngài giúp được ta việc này.
Cao Nghi cười khổ, ông ta không thể không bội phục Thẩm Mặc, ông ta và Cao Củng là bằng hữu bao năm, có tình cảm rất sâu, khi Cao Củng và Thẩm Mặc tranh chấp, có thể hòa giải. Nhưng ông ta biết sức ảnh hưởng của mình với Cao Củng không lớn như người ngoài nghĩ, nhắc:
- Cao Tân Trịnh nhận định việc gì tới 9 con trâu cũng không kéo lại được, tác dụng của lão hủ chỉ e bằng 0.
- Không sao, chỉ cần Cao Tân Trịnh hiểu quyền lực của ông ta tới từ đâu, ông ta sẽ không làm khó ta.
- Quyền lực tới từ đâu...
Cao Nghi trầm ngâm:
- Hoàng đế?
- Còn cả ta...
Thẩm Mặc thản nhiên nói ra một câu cuồng tới mức khiến người ta bật cười, nhưng Cao Nghi biết, y nói thật.
Chương 838: Long Khánh tân chínhNghe xong tuyên bố tưởng như ngông cuồng Thẩm Mặc, Cao Nghi có chút lo âu:
- Địa vị và quyền lực sẽ làm con người ta thay đổi. Huống hồ Trịnh công này cũng là loại nhỏ nhen, mặc dù trong khoảng thời gian này ngài đã giúp hắn rất nhiều, nhưng hắn cũng sẽ không vì thế mà cảm kích ngài.
- Ha ha...
Thẩm Mặc nâng ly trà uống một ngụm nói:
- Tiên sinh hiểu lầm rồi, Thẩm Mặc ta chưa bao giờ là người đòi người khác báo ân cả, ta nói quyền lực của Cao Trịnh xuất phát từ hoàng đế và ta, cũng không phải khoe khoang mình tài giỏi thế nào, mà chỉ là muốn nói sự thực.
- Điều này có gì khác nhau sao...
Cao Nghi cười khổ nói.
- Khác.
Thẩm Mặc lắc đầu nói:
- Quyền lực của một người có lớn thế nào không phải nhìn bằng mắt mà thấy được, mà phải xem hắn làm được chuyện lớn đến thế nào. Vì sao Cao Củng có thể hoành tảo thiên quân, chính là nhờ dựa vào thánh quyến... Thứ này ta cũng có, hơn nữa cũng không kém ông ta bao nhiêu. Cao Củng muốn cải cách triều chính, nhưng như thế lại đắc tội với người khác, nên nhất định phải được hoàng đế ủng hộ, như vậy mới không tạo mâu thuẫn với ta... Sự việc nên làm thế nào, Cao Củng tự mình biết rõ.
- Thì ra là thế...
Cao Nghi gật đầu, nhưng lại nghĩ ông ta còn một lựa chọn, chính là đuổi ông đi.
- Chỉ cần đầu Cao Củng không có vấn đề, thì ông ta không thể không biết, có được một người như ta trợ giúp thì có lợi với cải cách của ông ta thế nào.
Dường như nhìn ra được thắc mắc của Cao Nghi, Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Nếu như không muốn lưỡng bại câu thương với người khác, thì nhất định ông ta phải dựa vào ta.
Cao Nghi im lặng, hắn biết Thẩm Mặc có tư cách nói lời này. Nếu y đã có tự tin đối mặt với vấn đề trong tương lai, thì hắn cũng không lắm miệng nữa, bèn cười nói:
- Chỉ là thế này ngài sẽ phải chịu ủy khuất rồi.
- Ba hai tuổi làm thứ phụ!
Thẩm Mặc cười rộ lên:
- Nếu ta coi đây là ủy khuất thì người trong thiên hạ chẳng phải chửi chết ta sao?
- Cũng phải...
Cao Nghi cười khổ nói:
- Có điều giờ ai mà có gan nói đến tuổi tác của ngài.
- Bọn họ nói mặc bọn họ.
Thẩm Mặc thản nhiên:
- Nói đến tuổi tác, Cao Trịnh và ta đều là tuổi Dậu, nhưng hắn hơn ta đến hai giáp...
Mặc dù không nói tiếp, nhưng Cao Nghi nghe thế đã hiểu, hai người hơn kém nhau 24 tuổi, cũng là một thế hệ, đến lúc Thẩm Mặc lên được thì Cao Củng cũng không phải là đối thủ của y. Liền gật đầu:
- Nhưng ngồi ở vị trí đó sớm cũng chẳng phải là điều tốt.
- Không cần lo xa như vậy.
Thẩm Mặc khoát tay:
- Hiện tại nắm lấy cho tốt là được.
- Đúng vậy.
Cao Nghi nhẹ giọng hỏi:
- Ngài thấy nếu Cao Trịnh làm được như ngài nói, thì sau này hắn có xảy ra vấn để gì không?
- Với tính tình thối tha của hắn...
Thẩm Mặc cười khổ nói:
- Cả ngày không làm loạn lên mới là lạ.
Thấy sắc mặt Cao Nghi trắng bệch ra, Thẩm Mặc cười nói:
- Nhưng tiên sinh yên tâm, sau này dù có loạn, cũng chỉ loạn trong nội bộ, cũng sẽ không lan ra tới triều đình đâu mà lo.
Rồi hạ giọng:
- Từ lão, Triệu lão đều đã đi, thiên hạ còn ai là đối thủ của hắn?
- Cũng phải.
Kỳ thật Cao Nghi đã đoán được trước, chỉ là không nghe được chính miệng Thẩm Mặc nói ra thì hắn vẫn thấy không yên lòng, liền cười nói:
- Xem ra một hồi loạn đấu cũng không phải không có tác dụng.
- Ừm.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Ít ra cũng làm nội bộ bớt lục đục...
Nghĩ một chút rồi lại nói:
- Hiện giờ chúng ta có bốn người, chắc có thể tiến cử thêm Trương Tứ Duy, có điều hắn trước nay tao nhã, chắc không muốn theo Cao Trịnh chuốc lấy phiền phức.
- Trương Thái Nhạc định sẽ thế nào?
Cao Nghi hỏi. Mặc dù Trương Cư Chính vô cùng kín tiếng, nhưng Triệu Trinh Cát vừa đi, hắn liền trở thành đại biểu của Từ đảng trong triều, nếu như lại đứng về phía Cao Củng thì thật là phiền phức.
- Hắn và Cao Trịnh vẫn còn qua lại, chắc sẽ không đến nỗi như vậy...
Thẩm Mặc nhẹ nắm mắt, hiện giờ nếu còn có điều gì khiến y không yên tâm thì không phải là do Cao Củng, mà bởi vì kẻ ngày xưa là bạn tốt giờ thành người xa lạ Trương Cư Chính.
Đối với Trương Cư Chính, trong lòng Thẩm Mặc vô cùng khó xử, một mặt hai người từng là tri kỉ, từng có chung nguyện vọng vì thiên hạ bách tính; nhưng khi chức quyền mỗi người một khác lại không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Cuối cùng Trương Cư Chính trở mặt, Thẩm Mặc cũng từ đó đoạn tuyệt quan hệ giữa hai người.
Mặc dù hai người đều kín tiếng, nhưng người bên ngoài có ai lại không biết mâu thuẫn của bọn họ? Cho nên bọn họ cũng không cần ra vẻ khách khí, bình thường ngoài mục đích công việc, thì hai người đã không còn qua lại nữa.
Thẩm Mặc từng một lần muốn diệt trừ Trương Cư Chính, nhưng vì hắn có quan hệ với Long Khánh, mặc dù không bằng y, nhưng cũng gọi là thân thiết, cho nên y cũng phải nể mặt hoàng đế. Mà Từ Giai trước khi rời khỏi kinh cũng ám chỉ rằng Trương Cư Chính là người của lão để lại trong kinh, nếu Thẩm Mặc y dám làm gì hắn thì lão sẽ từ mặt. Mặc dù lão không còn tại vị nhưng lão vẫn là thầy của Thẩm Mặc, nếu thật sự bị lão từ mặt thì Thẩm Mặc cũng khó xử.
Thật ra việc hạ bệ Trương Cư Chính mà không để người khác dị nghị đối với Thẩm Mặc y cũng không phải là không thể làm được... Đối với những việc thế này Thẩm Mặc rất thành thạo, nhưng từ tận trong lòng y không thích làm như vậy, y không muốn tham gia vào loại chuyện tranh quyền đoạt lợi tầm thường thế này.
Lòng tự tôn của Thẩm Mặc không cho phép y làm như thế, y thà nhìn Trương Cư Chính trở thành một cải cách gia lớn mạnh. Bởi vì y tin rằng, đến lúc thích hợp y có thể đủ sức loại bỏ đối phương, cho nên y để mặc Trương Cư Chính về theo phe Cao Củng.
Thật vậy, chỉ nửa năm ngắn ngủi sau khi trở về, Cao Củng đã có thể loại bỏ được ba người cạnh tranh với mình, ngoài việc ông ta chiếm thiên thời địa lợi nhân hoà, thì cốt yếu là có được sự trợ giúp của Trương Cư Chính.
Không cần xem tình báo của Cẩm Y Vệ Thẩm Mặc cũng có thể biết, Cao Củng kia mặc dù hư trương thanh thế, nhưng thực ra đã giăng bẫy để dẫn dụ Triệu Trinh Cát vào tròng, đến nỗi Triệu Trinh Cát phải liều mạng với Cao Củng và thánh quyến. Cao Củng lấy sở trường của mình để đánh với sở đoản của đối thủ, sao lại không thắng cho được?
Dù sớm biết rằng Cao Củng sẽ thắng, nhưng thắng dễ dàng như thế khiến Thẩm Mặc biết chắc rằng trong đó tất có âm mưu. Nhưng biết rồi cũng chỉ để thở dài một tiếng, hay cho một kế một đá ba chim... Đầu tiên, khiến Triệu Trinh Cát cuốn gói về nhà; thay thế Lý Phương; còn tiện thể hạ đài Trần Dĩ Cần, một lần loại bỏ được ba người phản đối cải cách. Thứ hai, qua việc này Trương Cư Chính đã lấy được tín nhiệm của Cao Củng, trở thành quân sư của ông ta, đối với thời còn núp dưới bóng của Thẩm Mặc, ăn bữa nay lo bữa mai mà nói, thì đây chính là một bước củng cố vững chắc địa vị của Trương Cư Chính; cuối cùng, sau khi Lý Phương và Triệu Trinh Cát không còn, Trương Cư Chính đương nhiên trở thành đại diện cho Từ đảng, điều này giúp tăng cường thực lực cho hắn rất nhiều.
Có thể nói, lần tranh đấu này có thể ngắn ngủi và dễ dàng đến vậy, chính là bởi vì có Trương Cư Chính đằng sau hiến kế, còn Cao Củng chỉ là người làm theo, mặc dù nở mày nở mặt, nhưng trong lòng Cao Củng vẫn có cảm giác bị người khác lợi dụng...
- Nếu như ngài đã nói như vậy, chắc hắn sẽ cũng không làm gì quá đáng...
Cao Nghi thoải mái nói:
- Khó khăn lắm mới có được thời khắc yên bình thế này.
- Phải, cho dù thế nào...
Thẩm Mặc gật đầu cười:
- Cũng đã tới lúc làm chính sự rồi...
- oOo-
- Tới lúc làm chính sự rồi.
Cao Củng ngồi trên vị trí tể phụ cũng không cảm thấy vui mừng tột độ, bởi vì ông thấy vị trí này vốn thuộc về mình, cho nên trên mặt không lộ vẻ kích động, cũng không lộ vẻ cảm kích, chỉ nghiêm mặt nói:
- Quốc sự đã thế này chúng ta không thể đợi được nữa. Cùng thực hiện cải cách, loại bỏ cái cũ, mong chư vị hãy cùng nỗ lực, đừng để phí thời gian.
Trong ba tháng nhậm chức, từ tháng ba đến tháng sáu, ông đã liên tiếp dâng lên mười bản tấu chương, trực tiếp nói ra tư tưởng cải cách chấn động triều dã của mình. Có câu muốn lên đài phải tốn mười năm công phu, vì ngày hôm nay, Cao Củng hiện giờ sao lại chịu bỏ phí mười năm công sức chứ?
Cải cách đương nhiên không phải là mọi người ngồi với nhau mà nói cải cách đi, cải cách đi, sau đó làm không đâu vào đâu. Đó là hồ đồ, không phải cải cách.
Nếu muốn cải cách, ngoài thiên thời địa lợi nhân hoà còn phải chuẩn bị để hứng chịu nghi vấn, phải tỏ rõ khả năng thực tiễn của lý luận và phương hướng cải cách đó.
Về điều này thì Cao Củng đã chuẩn bị tất cả.
[Đầu tiên, Cao Củng lợi dụng công báo, một lần nữa nêu rõ lý luận cải cách của ông... Trong lịch sử cũng có ghi lại, cải cách phải dựa vào lý luận cơ sở, lấy lý luận làm trọng tâm, nếu thiếu đi lý luận thì cải cách sẽ không xuất hiện, nếu có xuất hiện thì cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn mà thôi.
Thứ hai, vào lúc Long Khánh thay đổi niên hiệu, Cao Củng đã đưa ra chủ trương chính trị của bản thân. Nhưng vì lúc đó chức quyền còn yếu, tự nhiên lại đưa ra chủ trương như vậy, đương nhiên là tự chuốc lấy xấu hổ. Chủ trương của ông là vạch trần những luật lệ tập quán bất hợp lý cổ lổ sĩ, liệt kê ra "bát tệ": không theo luật pháp, tham tiền, cay nghiệt, đố kị, trốn tránh trách nhiệm, bè đảng, cẩu thả, viển vông. Những thói quen lâu ngày này rất khó sửa. "Bát tệ rộng khắp khắp thiên hạ, không những không thể cứu nạn, mà còn tạo ra loạn khắp nơi", nhưng Cao Củng tin tưởng chắc chắn lại trị có thể sửa được, mọi chuyện có thể dẹp yên, binh yếu có thể luyện, tài thiếu có thể bồi, nhất định phải dùng biện pháp mạnh, nhất định phải cải cách. Kính người trung hậu thì cay nghiệt bị tiêu; khen thưởng đúng mực thì không còn đố kị; phân rõ nhiệm vụ thì sao có trốn tránh trách nhiệm; tất cả vì lợi ích chung thì bẻ đảng bị giải trừ; luận công tội rõ ràng thì ai dám cẩu thả; luôn bám sát thực tế thì viển vông nào còn.
Chủ trương cải cách tập trung vào một vấn đề: tất cả mọi việc, đều lấy luật pháp làm chủ. "Bát tệ trừ xong, mọi chuyện sẽ được tốt đẹp! Chỉ có bài trừ Bát tệ mới có thể xoay chuyển được nguy cơ, tránh được suy tàn, đạt được mục đích "Sửa trong chống ngoài, đủ thực đủ binh".
Sau khi quay trở lại, Cao Củng định trình lên một bản điều trần, trình bày cụ thể các điều mục kiến thiết, nhưng khi xem [Trần lục sự sớ] của Trương Cư Chính, thấy trong đó gần như đã nói hết những điều trong lòng, Cao Củng liền coi Trương Cư Chính là đồng chí.
[Trần lục sự sớ: sớ kể sáu chuyện]
Đến khi Cao Củng nắm quyền, đã mang lý luận và cương lĩnh ra áp dụng vào thực tế, cũng chính ông dâng lên liên tiếp mười đạo tấu chương. Nội dung của cả mười tấu chương chính là các kiến nghị cải cách hành chính, tài vụ, tư pháp, quân sự, thuỷ lợi, vốn bắt chước theo thời Gia Tĩnh, đến nay đã không còn hợp lý nữa.
Trong đó có ba điều quan trọng, cải cách lại trị, cải cách quân sự và cải cách tài vụ. Bản thân Cao Củng gánh trách nhiệm cải cách lại trị, nhiệm vụ cải cách quân sự giao cho Thẩm Mặc, còn nhiệm vụ cải cách tài vụ chính là của Trương Cư Chính. Về phần Cao Nghi... Dù sao cũng cần phải có một người phụ trách sự vụ hằng ngày.
Vì sao nói ba điều này quan trọng, rất đơn giản, Đại Minh từ ngày lập quốc tới nay, quân sự vẫn đứng vị trí thứ nhất, nhưng đối với một dân tộc làm nông mà nói, chiến tranh chính là tiêu tiền, không có tiền thì chiến tranh làm sao? Về phần lại trị... Cao Củng có [Trừ bát tệ sớ], chấn chỉnh các tệ nạn chốn quan trường. Cao Củng vô cùng tỉnh táo, phương án cải cách dù là tốt cũng đều yêu cầu các quan viên phải nghiêm chỉnh chấp hành, nếu như chỉ đội ngủ con con thế này mà hắn không chỉnh đốn ổn thỏa được, thì dù phương pháp tốt cũng sẽ bị hoàng thượng quở trách.
Sở dĩ cải cách của Vương An Thạch làm mọi người lên án, chính là bởi vì nguyên nhân không biết cách dùng người...
- oOo-
Cao Củng phụ trách cải cách lại trị. Lại trị là chế độ chính trị cơ bản của quốc gia, chính trị thối nát dẫn đến lại trị bại hoại, mà lại trị bại hoại lại càng làm cho chính trị thêm thối nát. Hơn nữa còn khiến cho quan trường đen tối, chính sự trong triều bị bỏ bê, tài chính khó khăn, dân chúng khốn cùng, tình cảnh xã hội cùng quẫn.
Trong [Trừ bát tệ sớ], Cao Củng cũng đã nói rõ về vấn đề này, nhưng để cải cách thì phải hiểu rõ, rồi sau đó mới bốc thuốc đúng bệnh được. Trong một loạt các tấu chương, ông đã nêu ra những điều tệ hại sau đây:
Điều tệ thứ nhất chính là việc chọn quan viên chỉ dựa vào số năm làm quan. Thời Thái tổ, chọn quan viên phải dựa theo hiền đức, không quan tâm tới thâm niên làm quan, nhưng tới thời Tuyên Đức lại ngược lại, chỉ chú trọng tới thâm niên làm quan. Trong [Nghị xử khoa mục nhân dĩ hưng trị đạo sớ] Cao Củng có nói, quan viên xuất thân tiến sĩ thậm chí lấy tội làm công, còn quan viên xuất thân cử nhân từ công lại biến thành tội. Thực tế, quan viên xuất thân khoa bảng có nhiều người chỉ biết nói những điều viển vông mà không biết làm, những người có thực lực, hiểu dân lại không có mấy. Trái lại, những cử nhân xuất thân khoa cống vì chăm chỉ làm nhiệm vụ của mình, đối với những việc của dân chúng vô cùng quen thuộc, cho nên rất thích hợp với công việc gần dân.
(Nghị xử khoa mục nhân dĩ hưng trị đạo: bàn về đạo dùng người để hưng thịnh)
Nhưng bản triều lại có sự phân biệt đối xử nghiêm trọng với quan viên xuất thân từ tiến sĩ và khoa cống. Tiến cử, lên chức, tất cả những ưu đãi này đều thuộc về tiến sĩ quan viên; mà khổ sở vất vả, chịu tiếng xấu thay cho người khác lại dồn hết lên khoa cống, hơn nữa bọn họ không thể có tiền đồ. Vì thế, không những kìm hãm rất nhiều người, mà còn khiến cho triều đình không thể tìm được nhân tài thích hợp, vì nước ra sức, cũng khiến cho khoa bảng quan viên càng được nước làm điều xằng bậy.
Điều tệ thứ hai chính là khảo hạch không sát thực tế, thưởng phạt lộn xộn. Vốn bản triều đã hoàn thiện đầy đủ các chế độ khảo hạch nghiêm ngặt, thưởng phạt phân minh. Nhưng từ thời Thành Hoá tới nay đã xuất hiện vấn đề nghiêm trọng. Một là các bè cánh dùng khảo hạch làm công cụ loại trừ lẫn nhau. Hai là thưởng phạt bừa bãi, trong tấu chương Cao Củng không chỉ vạch trần phủ án mỗi tỉnh không tuân theo luật pháp, còn chỉ ra các quan lại bao che cho nhau. Ba là việc trừng trị quan lại không theo thực tế mà lấy theo định mức: Hơn mười năm qua, việc trừng phạt quan viên đều có định mức, năm nào cũng vậy, chỉ cần đủ số thì dù thực tế còn xấu cũng không tính vào; nhưng nếu thiếu thì trừng phạt cả những quan viên tốt cho đủ số.
Điều tệ thứ ba là xem thường biên quan, diêm quan và mã quan. Cao Củng chỉ ra quan viên ở Liêu, Sơn, Thiểm nếu không theo bè cánh thì sẽ bị giáng chức, cho dù không bị giáng chức thì cũng không chịu nổi sức ép mà từ quan.
Điều tệ thứ tư là lấy chuyện công làm việc tư, không từ thủ đoạn. Trong tấu chương, Cao Củng có nói tới tình hình quan trường hiện nay: người thời nay làm quan đều vì tranh giành bổng lộc chức tước, tất cả đều nhắm mắt chạy theo, kẻ nào cũng xu nịnh bợ đỡ, cho rằng làm như thế mới là quan tốt. Lấy công mưu tư, tham ô vô lại, chỗ nào cũng có, gần như đã thành phong trào.
Điều tệ thứ năm là bỏ bê nhiệm vụ, không nghe mệnh lệnh. Bởi lại trị bại hoại, thưởng phạt lộn xộn, khiến những người làm quan không chuyên tâm làm việc. Triều đình truyền lệnh tới các bộ, các bộ cũng lần lữa, bỏ mặc, mọi chuyện sau một thời gian, cũng chẳng còn ai nhắc đến.
Những điều này cũng đã khái quát được sơ qua về tình hình lại trị đương triều.
- oOo-
Những điều này Cao Củng cũng đã nêu ra phương pháp giải quyết.
Để giải quyết điều tệ thứ nhất: chọn quan không cần hỏi điều gì, chỉ cần xem số năm làm quan, đối sách chính là: chọn người có năng lực, không quan tâm xuất thân. Cao Củng giao cho Lại bộ phải đảm bảo các quan viên xuất thân tiến sĩ, cử nhân cùng giám sinh đều phải có quyền lợi như nhau, luận xuất thân chỉ ở lúc đầu nhận chức, còn quyền lợi sau đó đều phải dựa theo thành tích mà xét. Ông cũng xin hoàng đế hạ chỉ cho Đô Sát viện và mỗi quan phủ án, cần phải làm họ thay đổi tư tưởng cũ, không được trù dập những người hiền đức, bảo hộ người vô năng chỉ vì xuất thân của họ. Ông tuyên bố rằng, chỉ cần làm theo điều này, thì tiến sĩ không còn tự kiêu, cử nhân sẽ chú trọng hơn vào hiệu quả, tất sẽ có nhiều thiện chính. Cho dù tất cả mọi người có thể không được như thế, nhưng trong mười chỉ cần có sáu, bảy thì cũng đã quá nửa rồi. Mà thiện chính nhiều thì dân an, dân an thì nước tự khắc giàu mạnh.
Cao Củng giao trách nhiệm cho ti quan Lại bộ, ghi lại danh sách tất cả các người tài có thể dùng được; lại truyền cho mỗi quan lại địa phương dốc sức tìm kiếm người hiền đức, chỉ cần có năng lực thì bất luận xuất thân, đều phải tiến cử không được bỏ sót.
Sau đó từ danh sách tiến cử chọn ra người để bồi dưỡng. Cao Củng nói: Triều đình dùng người tất phải bồi dưỡng, nếu không như vậy thì cũng chỉ là dùng cho đủ số mà thôi. Chủ trương của ông là đầu tiên chọn ra một số người, sau đó cử họ tới mỗi nha môn hoặc địa phương làm trợ lý cho các quan, tích lũy kinh nghiệm, cũng nhờ đó mà triều đình có thể nhận định rõ họ có phải là người tài thật sự không, rồi dựa theo năng lực mà giao cho trọng trách.
Đối với mỗi người đã bồi dưỡng tốt thì đều được dùng hết. Cao Củng nói từng người đều có tính cách khác nhau, cũng như có khả năng khác nhau, tựa như năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng tất cả đều có tác dụng riêng, quan trọng là phải sắp xếp được cho những người này vị trí thích hợp... Ông dựa theo năng lực mà chia tất cả mọi người làm ba cấp: thượng, trung và hạ, nhưng ông cũng biết mọi người đều có chỗ hữu dụng của mình, quan trọng là phải biết phát huy sở trường tránh sở đoản, thì mọi chuyện đều có thể hoàn thành.
Hơn nữa đối với việc xử phạt quan viên phải xác định rõ ràng lỗi phạm phải là lớn hay nhỏ, đừng để vì lỗi nhỏ mà bỏ phí người tài. Đây cũng là chính sách dùng người mà Cao Củng đã nhiều lần nhấn mạnh. Theo quan điểm của ông, đã là người thì ai ai cũng có lỗi lầm, không tồn tại người nào mà không có sai lầm trong đời. Người không có sai lầm chẳng qua là người chưa từng làm qua việc đó mà thôi, một khi đã làm chắc chắn sẽ có lầm lỗi.
Cho nên Cao Củng yêu cầu đối với những lỗi "rất nhỏ" thì cần phải có thái độ khoan dung, nếu nhận định là việc lớn liên quan tới quốc gia đại sự thì phải có xem xét cụ thể, ngoại trừ giam giữ như trước đây thì phải điều tra tường tận. Đối với những người có năng lực nhưng phạm lỗi, khi xét xử sẽ được chú ý điều tra; với những người đã từng phạm lỗi nhưng biết ăn năn hối cải, thì không ai được để ý tới chuyện cũ của người đó, mà phải hết sức giúp đỡ, vì mục tiêu chung phấn đấu. Còn những người chưa từng phạm lỗi nhưng không có thành tích biểu hiện gì, thì phải xem xét đề nghị bãi chức, tránh cản trở hiền tài tiến thân.
Đồng thời chỉ ra vì người giỏi toàn diện có rất ít, nếu như cách dùng người quá khắt khe thì chỉ khiến họ chán nản, co về tự bảo vệ lấy mình, lúc này quốc gia dựa vào ai để kiến công lập nghiệp chứ?
Ngoài ra còn phải chuẩn bị lớp quan viên dự bị cho thật tốt. Trong tấu chương ông có nói: dùng người không phải chỉ trong ngày một ngày hai, phải có kế hoạch bồi dưỡng lớp kế cận. Hơn nữa với những chức quan quan trọng cần phải nhắm tới hai ba người có thể thay thế, để khi một người có chuyện thì đã có người khác làm thay, tránh chức quan bị bỏ trống. Cái này gọi là "Dự vi chi kế" đối với việc làm quan.
Sau đó ông điều chỉnh chính sách một người không được làm quan tại tỉnh của mình. Chính sách này vốn đã có từ thời lập quốc tới nay, Cao Củng một mặt cho đây là một chính sách cần thiết, ông nói: Quốc gia dùng người không được điều về tỉnh của người đó, bởi vì tộc nhân của họ trong tỉnh, rất dễ để việc riêng tư ảnh hưởng vào việc công, cho nên phải điều đi tỉnh khác làm quan; một mặt lại nói chính sách chỉ áp dụng cho các chính quan ở các phủ, châu, huyện, tỉnh, mà không áp dụng cho các quan lại thuộc hạ bên dưới. Ông nói: các quan lại thuộc hạ chức quyền không lớn, lại thường xuất thân gia cảnh bần hàn, nếu như phải đi xa thì có thể không muốn làm quan nữa, hoặc có đi thì cũng không thể quay về, vô cùng cô độc, tình cảnh rất đáng thương. Cho nên có thể cân nhắc để bổ nhiệm tới địa phương kế cận.
- oOo-
Để tránh điều tệ thứ hai, khảo hạch không sát thực tế, thưởng phạt lộn xộn Cao Củng có đối sách: khảo hạch phải nghiêm ngặt, đúng đắn. Chủ trương cụ thể là:
Đầu tiên phải thống nhất các tiêu chuẩn khảo hạch. Cao Củng yêu cầu khi khảo hạch quan lại thì không được dựa vào xuất thân, mà phải dựa theo thành tích, ưu khuyết mà ra kết luận. Ông còn đề ra các nội dung khảo hạch riêng cho từng chức vụ, từng bộ ngành cụ thể.
Thứ hai nhắc lại tính đúng đắn, đầy đủ của khảo hạch. Trong [Minh sự lệ dĩ định khảo hạch sớ] Cao Củng có nhắc lại về các điều cụ thể trong khảo hạch, yêu cầu Lại bộ, Đô Sát viện cùng với mỗi nha môn phủ, án đều phải làm theo.
Thứ ba cho phép người bị khảo hạch được biện bạch, người oan uổng phải được minh oan, người vu cáo phải bị trị tội. Cao Củng nhấn mạnh các quan viên giám sát khảo hạch phải xử sự theo lẽ công bằng, lại đề xuất cho phép người bị khảo hạch được phản biện cho mình.
Thứ tư, tăng số lượng quan viên giám sát khảo hạch. Cao Củng yêu cầu mỗi quan viên phủ án đều phải vô tư, không vì tình riêng mà bao che kẻ xấu, hãm hại người tốt.
- oOo-
Với điều tệ thứ ba là xem thường biên quan, diêm quan và mã quan, đối sách của Cao Củng là tăng cường lựa chọn biên quan, diêm quan và mã quan. Đối với biên quan, ông đề xuất với các đại quan ở vùng biên: sau này đối với tiến sĩ, cử nhân đều phải có cách lựa chọn và loại trừ giống nhau, có tài thì dùng, không thì loại. Còn về diêm quan và mã quan, trong tấu chương ông có nói: nay để mã quan chuyên tâm coi sóc ngựa, đáp ứng cho nhu cầu của quân đội. Diêm quan thì chuyên tâm vận chuyển muối, đáp ứng nhu cầu cả nước. Tất cả đều được coi là các chức quan quan trọng, còn phá vỡ lệ thường, nếu sau này "Khanh", "Sử" mà thiếu, sẽ chọn người liêm khiết có triển vọng bổ nhiệm vào.
Đối với điều tệ thứ tư, lấy chuyện công làm việc tư, không từ thủ đoạn, Cao Củng cũng đưa ra đối sách. Tại Lại bộ, chỉnh sửa lại cách thức bổ nhiệm và bãi miễn quan lại, ngăn chuyện lấy công làm tư. Trước đây việc thăng chức quan viên đều là chủ sự văn tuyển ti hỏi lang trung, lang trung lại bí mật trình lên thượng thư. Cho dù trong đường có thị lang, ti có viên ngoại cũng không hề biết. Chuyện này là vì sao? Cao Củng chỉ một câu đã nói được nguyên nhân của nó, cái này chẳng qua là chuyện riêng của họ thì họ phải giấu kín mà thôi. Vì vậy liền yêu cầu sau này nếu có điều chuyển, thì phải lệnh cho thư lại mang văn kiện tới hâu đường, hai thị lang cùng đồng thời xem xét, có như vậy thì mới tránh được tư tâm.
Ngoài ra phải thưởng thanh liêm trừ tham quan. Đối với tham ô, chủ trương của Cao Củng là trừng phạt nghiêm khắc, không chỉ bãi quan tước chức, còn phải truy tìm tài sản tham ô, không để cho tham quan lộng hành làm sa sút lòng tin của dân chúng. Đối với quan thanh liêm, ông đề nghị tưởng thưởng. Ông nói: Không trừng phạt thì sao răn đe, không khen thưởng thì sao khích lệ? Hơn nữa còn đả kích người đút lót và nhận hối lộ để nhằm vào thói quen hối lộ đang phổ biến trong xã hội, cần phải có sự trách phạt nặng nề làm gương cho kẻ khác.
Đối với điều tệ thứ năm, quên như vậy, không nghe mệnh lệnh. Cao Củng chủ trương loại bỏ những quan viên này, ông nhấn mạnh hai điểm, một là phải dựa theo thực tế, không nên dựa theo một con số cụ thể nào; hai là phải phân biệt rõ ràng người đáng bị loại bỏ với người mắc lỗi nhưng có thể sửa sai được, tránh loại nhầm đi hiền tài của quốc gia.
- oOo-
Phương diện cải cách tài chính thì xảy ra bất đồng đối với các quan lại cũ. Trong [Nghĩa lợi quan], Cao Củng lần đầu tiên không kiêng kị gì mà nêu lên thế nào là nghĩa hay bất nghĩa, yêu cầu các cấp quan lại phân rõ công lợi và tư lợi, nếu là làm lợi cho quốc gia thì lợi này gọi là nghĩa, nếu như chỉ làm lợi cho bản thân thì lợi này gọi là bất nghĩa. Còn nói rõ việc quản lý công lợi và tư lợi cũng chính là một nhiệm vụ quan trọng của triều đình. Điều này không chỉ phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa phi công lợi của Lý học Tống Minh, mà mục đích chính của nó chính là muốn hiệu triệu quan phủ các cấp phải chú ý tới thực tế tài chính, vì Long Khánh mà ra sức phục hồi kinh tế Đại Minh.
Vậy cụ thể là làm thế nào?
Giai cấp thống trị thì từ trước tới nay chỉ muốn có thật nhiều tiền, mà đều lấy từ của bách tính. Cao Củng cho rằng nếu thật sự muốn có thật nhiều tiền, thì không thể chỉ dựa vào việc ép lấy sưu cao thuế nặng, mà còn phải biết "Khai tài chi nguyên" và "Tiết tài chi lưu".
(Khai tài chi nguyên: nôm na là tạo nguồn tiền)
(Tiết tài chi lưu: tiết kiệm)
Trước tiên là nói về "Tiết tài chi lưu", Cao Củng cho rằng điều này chính tiết kiệm và dự trữ. Tiết kiệm chính là hàng năm triều đình phải có chính sách cụ thể với tiền thu vào, phàm là việc không có ích cho quốc gia, bách tính, hoặc là việc ban thưởng vô tội vạ, tổ chức lễ tiết không cần thiết, tất cả đều cắt giảm. Như vậy không những giảm bớt gánh nặng cho bách tính, còn có thể tiết kiệm dành cho cứu tế và quân phí.
Còn về dự trữ, chuyện này được Cao Củng xếp thành chuyện quốc gia đại sự, vậy dùng phương pháp nào để sử dụng hợp lý nguồn thu hàng năm của quốc gia? Cao Củng đề xuất phương pháp ba và một, thu nhập hàng năm được chia làm bốn phần, chi tiêu chỉ được ba phần, còn một phần dành để tiết kiệm. Tổng cộng sau ba năm sẽ dự trữ được ba phần tư thu nhập một năm, cũng vừa đủ để chi dùng cho năm đó. Cứ theo đó mà tính, sau chín năm thì có thể tiết kiệm để chi dùng cho ba năm tiếp theo nữa, như vậy cho dù có gặp phải một năm thiên tai mất mùa thì cũng có thể không phải lo lắng.
Vậy còn "Khai tài chi nguyên" là thế nào? Cao Củng ngoài việc chú trọng vào nông nghiệp như trước đây, còn xác lập địa vị của công thương nghiệp và các hoạt động tài chính. Trước đây mỗi triều đại vẫn luôn áp dụng chính sách "Trùng bản ức mạt", mặc dù từ thời Thành Hoá tới nay cũng đã có không ít người kêu gọi coi trọng công thương nghiệp, nhưng người có thể biến chính sách đó thành hiện thực, áp dụng trong thực tế cũng chỉ có Cao Củng mà thôi. Ông cho rằng, nông nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh, coi trọng nó là việc đương nhiên, nhưng mặt khác cũng không thể bỏ qua sự phát triển của công thương nghiệp.
(Trùng bản ức mạt: Coi trọng nông nghiệp khinh công thương nghiệp)
Đương nhiên Cao Củng vẫn biết nông nghiệp mới là gốc rễ của quốc gia, chỉ cần người người có ruộng nương, chăm chỉ cần cù thì quốc gia mới có thể có nguồn lực hùng hậu. Cao Củng cũng thấy được mối quan hệ giữa nông nghiệp và thương nghiệp là hỗ trợ lẫn nhau, nếu như nông nghiệp được mùa bội thu nhưng lại không có thương nhân mang sản phẩm đi buôn bán, thì nông dân cũng không thu được bao nhiêu lợi ích. Năm được mùa thì dự trữ, đến năm không may mất mùa thì lấy lợi của năm được mùa mua lương thực được thương nhân mang từ nơi khác tới, như vậy mới thấy được mối quan hệ dựa vào nhau của nông nghiệp và thương nghiệp, công thương nghiệp phát triển cũng kéo theo nông nghiệp phát triển.
Về phần phát triển công thương nghiệp thế nào, Cao Củng cho rằng phải nâng cao địa vị của thương nhân. Trong sớ dâng lên hoàng thượng, Cao Củng mong rằng sẽ bỏ được tệ nạn lâu nay, không được tìm cách chèn ép, bóc lột thương nhân, bắt thương nhân đút lót, hối lộ hay các thu các khoản tiền không hợp lý khác. Nếu triều đình có mua bán với thương nhân, thì phải định giá rõ ràng, thu mua theo giá của chung của thiên hạ, hơn nữa không được khất nợ tiền hàng, cho dù trong lúc đó quốc khố thiếu bạc, thì cũng phải mượn từ nơi khác để bù vào, nhằm bảo đảm lợi ích của thương nhân.
Đương nhiên thương nhân mà Cao Củng nói tới ở đây chỉ là tiểu thương và thợ tiểu thủ công, còn đối với đại thương nhân ở Đông Nam ông cũng không có đánh giá, hay đưa ra một chính sách nào.
Cải cách tài chính thì do Trương Cư Chính đảm nhiệm. Thật ra từ những năm cuối thời Gia Tĩnh khi bắt đầu chấp chưởng Hộ bộ, hắn đã gắng sức phổ biến chính sách của hắn, chỉ bởi vì bị đám người đương quyền cựu thần Từ Giai, Cát Thủ Lễ, Triệu Trinh Cát coi là liều lĩnh mà cản trở hắn khắp nơi, cho nên mới không thể thực hiện được. Thế nhưng mấy năm gần đây sự việc đã có nhiều biến chuyển, lúc này hắn đã có thể triển khai toàn bộ kế hoạch cải cách của mình.
Phương án cải cách của Trương Cư Chính gồm ba phần cấu thành: cắt giảm chi tiêu, cải cách thuế và cải cách tiền tệ.
Trước tiên là nói về cắt giảm chi tiêu, ngoài việc Cao Củng nói không lợi ích thì không làm, không có công không ban thưởng... để tiết kiệm chi phí, thì hắn còn bắt tay vào làm "Tông phiên thế lộc" và "Nhũng quan nhũng viên".
(Tông phiên: tôn thất được phong đất phong hầu)
(thế lộc: quý tộc được thừa hưởng chức tước truyền đời)
(nhũng quan nhũng viên: quan viên thừa, vô dụng)
Tông phiên thế lộc chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự khủng hoảng tài chính của Đại Minh, điều này trong triều ai cũng đã biết. Ở Hà Nam, Hồ Quảng, Tứ Xuyên tông phiên dày đặc khắp nơi, tiền thu thuế ruộng thậm chí còn không đủ để trả cho tôn thất của thế lộc. Đám tôn thất này trở thành quỷ hút máu, ký sinh trùng, giờ cũng đã hút cạn máu của vật chủ là Đại Minh rồi.
Từ những năm bắt đầu thời Gia Tĩnh, Lễ bộ đã đề nghị phong hoàng tử làm quận vương, thân vương thì phong làm trấn quốc tướng quân, chính là một biện pháp để giảm thiểu chi tiêu. Thế nhưng bởi vì tôn thất phản đối mãnh liệt nên lại thôi. Rồi đến những năm cuối thời Gia Tĩnh mới ban ra [Tông phiên điều lệ], hạn chế đặc quyền của vương thất, một là cắt giảm bổng lộc, hai là quy định nếu như thân vương không có con thì người trong tộc không được kế thừa tước vị. Tuy vậy hoàng thân quốc thích vẫn còn được hưởng rất nhiều đặc quyền.
Đến thời Long Khánh, đại thần đã nhiều lần thượng sớ yêu cầu sửa đổi [Tông phiên điều lệ], yêu cầu nghiêm chỉnh thi hành việc hạn chế đặc quyền của vương thất, nhưng rồi cũng không đi tới đâu. Bây giờ khi Cao Củng tái nhậm chức, thời cơ mới chín muồi, Trương Cư Chính liền quyết đoán thực hiện, bày mưu cho ti lang trung Thích Nguyên Tá dâng sớ viết:
"Thân vương, quận vương, tướng quân từ thời lập quốc chỉ có bốn mươi chín vị, đến giờ đã phát triển lên thành hai vạn chín nghìn bốn trăm chín mươi hai vị, so với lúc lập quốc thì gấp tới mấy trăm lần, lấy toàn bộ thu nhập của năm nay cũng không đủ trả cho một nửa trong số họ. Kính thỉnh:
Một là hạn chế số người được phong tước. Trưởng tử của thân vương được thừa kế tước vị, con thứ được phép phong tước ba người, trưởng tử của quận vương thừa kế tước vị, con thứ được phong tước hai người, còn trấn quốc tướng quân chỉ có trưởng tử kế thừa tước vị, con thứ không được phong người nào. Phụng quốc trung úy thì không phân biệt trưởng thứ đều không được kế thừa, chỉ cho phép được phong một người. Còn những người không được phong thì ban cho tiền bạc, chương phục.
Hai là kiểm tra nghiêm ngặt tư cách thừa tự. Tôn thất không có nối dõi thì không được lôi kéo cả anh em họ hàng để thừa tự. Thân vương, quận vương không may tuyệt tự thì chỉ cho phép lập nên một người để trông coi chuyện trong phủ, không được mạo nhận thừa kế tước vị.
Ba là phân biệt thân sơ. Quy định con cháu bảy đời của quận vương chỉ được phong phụng quốc trung úy, sau đó không được truyền thừa nữa, đời kế tiếp được ban cho năm trăm lượng bạc, tùy ý sử dụng.
Bốn là nghị chúa quân. Nữ nhi của thân vương chỉ được phong ba, nữ nhi của quận vương chỉ được phong hai, nữ nhi của tướng quân trung úy chỉ được phong một, ngoài phong hào quận, huyện chúa hoặc quận, huyện, thôn quân thì bị cắt bổng lộc, khi xuất giá thì trượng phu không được cấp mũ áo, tất cả phải tự lo liệu lấy.
Năm là nghị mạo phí. Con cái của những tôn thất lai lịch không rõ, tôn thất đã bị đổi tước, tôn thất tự ý lập gia đình, sau này có sinh con cái thì con cái thì phải tự lo. Chỉ có con cái của tôn thất tự ý lập gia đình thì được thưởng danh, không được cấp cho bổng lộc gì".
Thật ra theo suy nghĩ của Trương Cư Chính, tốt nhất là con trưởng của thân vương thì phong quận vương, còn lại đều phong trấn quốc tướng quân, giáng phong thế này sẽ giảm thiểu được sự bành trướng của tôn thất thế lộc, nhưng mà Long Khánh không đành lòng, nội các cũng lo lắng sẽ làm cho tôn thất chấn động, rồi dựa vào đó mà mượn cớ phản đối tân chính (chính sách mới), cho nên mới phải dừng lại mà tiến hành từng bước. Nhưng chỉ cần như vậy cũng đủ để cho tình hình tài chính quẫn bách của Đại Minh dễ thở hơn rất nhiều... Qua sự kiểm kê đối chiếu của Lễ bộ và Hộ bộ, đã tra ra số tôn thất không rõ lai lịch có tới một vạn bảy nghìn bảy trăm sáu mươi mốt người, mặc dù phần lớn chỉ là tước lộc cấp thấp, nhưng cũng có thể tiết kiệm cho mỗi tỉnh hai trăm lượng bạc, năm trăm vạn thạch lương thực, giảm rất nhiều gánh nặng cho mỗi tỉnh.
Đối với những quan viên không cần thiết hoặc không có năng lực, Trương Cư Chính làm rất mạnh tay. Lúc này Đại Minh có rất nhiều quan viên thừa thãi, không phải là quan phủ mà là các trung quan, cẩm y cùng thế tập huân quý võ tướng. Trong [Nghị tài cách nhân viên thừa sớ] có đề cập tới việc lập ra quy định cắt giảm, được chia làm ba đợt trong vòng năm năm, làm cho nhân số giảm về như hồi lập quốc.
(Nghị tài cách nhân viên: bàn về việc thay đổi nhân viên)
Còn về phần cải cách tài chính và thuế vụ, chủ yếu chính là phổ biến "Nhất điều tiên pháp", nhưng trước tiên phải tiến hành đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc. Mục đích chính của đo đạc lại chính là phát hiện ruộng chưa được kê biên, Trương Cư Chính biết rõ việc này đương nhiên sẽ đụng chạm tới lợi ích của huân quý, quan lại và thân hào, khiến cho bọn họ cùng phản đối. Nhưng hắn đã hạ hạ quyết tâm không bị lay chuyển, kiên định triển khai việc đo đạc. Hắn viết thư cho tuần phủ các nơi, khuyến khích họ thẳng tay mà làm, đồng thời cũng hạ lệnh trừng trị nghiêm khắc huân quý ngang ngược cản trở việc đo đạc và quan viên không làm được việc. Đây cũng là bước quan trọng tiếp theo của Trương Cư Chính.
Ngoài điều đó ra, hắn còn chủ trương cố gắng thực hiện cải cách tiền tệ, như ngày trước đã thỏa thuận với Thẩm Mặc, để Hối liên hào cùng Nhật Thăng Long ở hai nơi Giang Nam Giang Bắc cùng ấn hành tiền giấy mới.
Thật ra Trương Cư Chính cũng không muốn để cho hai đại phiếu hào phát hành tiền giấy, nhưng vì quốc khố của triều đình đã sớm cạn kiệt, tài chính vô cùng quẫn bách, cho nên hắn đành phải để hai đại phiếu hào này được lợi. Nhưng hiện giờ không cần biết hắn có thừa nhận hay không, thì ngân phiếu do hai đại tiền trang phát hành đã sớm thông hành toàn quốc, hiện tại triều đình cũng đã thừa nhận, hắn có muốn cũng đành phải chịu vậy mà thôi.
- oOo-
Về phương diện cải cách quân sự thì do Thẩm Mặc toàn quyền phụ trách. Cũng giống với Trương Cư Chính, từ khi nắm quyền ở Binh bộ tới nay, y đã dần dần đẩy mạnh cải cách, thực hiện các chính sách đã thương nghị với Cao Củng từ trước. Nhưng so với hai người Cao, Trương thì tình cảnh của y có vẻ ung dung hơn nhiều.
Chỉ có duy nhất một điều tranh cãi chính là, năm nay y đề xuất bãi bỏ xét duyệt nội giám doanh, phải do hoàng đế tự mình cử hành "Đại duyệt". "Đại duyệt" chính là đại duyệt binh, lần đại duyệt trước còn ở thời Võ Tông hoàng đế, đến nay đã gần năm mươi năm không được cử hành lại. Cho nên khi vừa đưa ra đã bị không ít đại thần phản đối, nói đây chỉ là việc hao tài tốn của, là Thẩm Mặc vì lấy lòng hoàng đế mới đưa ra ý kiến thối tha này, thiên hạ có thể có địch nhân vì ngươi đại duyệt binh mà kinh hãi sao? Có tiền không bằng tiếp tế cho biên quân còn hơn.
Nhưng chẳng mấy chốc, những tên bàn tán đều thành mục tiêu của các cải cách của Cao Củng, khiến tất cả lại phải quay đầu dựa vào Thẩm Mặc mong được giúp đỡ, nào còn dám trêu chọc y? Vì vậy mà cũng không còn người nào phản đối nữa. Còn Long Khánh hoàng đế mặc dù đối với các loại sách lược cải cách rất thờ ơ, nhưng đối với "Đại duyệt" lại vô cùng hứng thú... Một mặt kinh thành mấy năm liên tục đều nhận được cảnh báo, khiến cho hoàng đế phải coi trọng biên phòng, mặt khác còn có cơ hội được khoác chiến bào, cưỡi tuấn mã, giả làm tướng quân một hồi, đối với một hoàng đế quanh quẩn thâm cung mà nói thì việc này quả thực quá hấp dẫn...
Vì vậy hạ chiếu xuống muốn cử hành "Đại duyệt" vào mùa thu. Sau khi chiếu lệnh truyền đi, mỗi lộ tướng soái đều phấn chấn, đều gia tăng thao luyện, cố gắng tới lúc trước mặt hoàng đế thể hiện được điều gì, mong có cơ hội vươn lên nở mày nở mặt.
Còn Thẩm Mặc cũng bắt đầu tăng cường chuẩn bị quân tư, Cao Củng cũng tán thành đề xuất của y, ở ti Thanh lại quản lý kho vũ khí của Binh bộ bổ sung thêm một lang trung, hai viên ngoại lang cùng với bốn chủ sự, xem như là trợ thủ của Ngô Đoái, chuyên quản lý việc sản xuất. Cũng hạ tử lệnh phải hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm chất lượng, số lượng mà Binh bộ đã đề ra.
Trong buổi gặp mặt động viên sản xuất, y nói rõ với quan viên tham dự cùng người phụ trách công binh xưởng rằng những đồ quân giới này đều là gửi đi chiến trường, nếu lúc đó xảy ra vấn đề gì thì nhất định truy ra trừng phạt nghiêm khắc không tha. Để bảo đảm chất lượng, y còn hạ lệnh cho một lang trung của ti Thanh lại phải nghiêm ngặt kiểm tra chất lượng của toàn bộ quân giới nhập kho, không được để một bộ quân giới không đủ tiêu chuẩn nào nhập kho, nếu không thì chém không tha.
Nghe xong phát biểu đằng đằng sát khí của Thẩm các lão, tất cả mọi người biết là y đã thực sự ra tay, cũng không ai dám vuốt râu hùm nữa. Đệ đệ Chu Hi Hiếu của Thành quốc công thay mặt cho nhóm sản xuất tham dự cuộc họp đành phải nói trên dưới công binh xưởng đều nguyện ý vì mục tiêu đánh đuổi Thát Lỗ mà ra sức cống hiến, chỉ là nếu dựa theo tiêu chuẩn sản xuất như vậy thì chi phí sẽ tăng vọt, khoản dự trù trước kia sẽ không thể đủ.
- Thiếu hụt bao nhiêu ta đã tính qua...
Thẩm Mặc nhìn Chu Hi Hiếu nói:
-... là tám mươi vạn lượng, số tiền này Binh bộ sẽ chi làm ba lần, trong vòng nửa năm sẽ trả hết.
Từ Văn Bích vốn định nói lý một phen, nhưng không ngờ Thẩm Mặc đã điều tra hết chi phí, lợi nhuận của bọn họ, chỉ là nếu cứ như thế thì kiếm được quá ít.
- Chỉ cần có thể hoàn thành đúng hạn...
Thẩm Mặc thản nhiên cười:
-... Binh bộ sẽ thưởng thêm cho các vị hai mươi vạn lượng.
Muốn ngựa chạy nhanh mà không cho nó ăn thì đời này nó chạy?
Nghe xong lời này tất cả các chủ xưởng đều không còn dị nghị gì nữa, Chu Hi Hiếu ngượng ngùng cười:
- Mặc dù còn thiếu một chút, nhưng vì chia sẻ khó khăn cho quốc gia, chúng ta sẽ cố gắng.