Quan Cư Nhất Phẩm (Bản Dịch)

Chương 139 - Chương 839: Đại Duyệt Binh

Chương 839: Đại duyệt binh

Sau khi tan họp, Ngô Đoái vác cái mặt xám xịt tới gặp Thẩm Mặc:

- Dùng tiền như thế thì cùng lắm là trong tháng này sẽ tiêu hết dự toán của cả năm nay, vậy còn nửa năm nữa phải xoay sở làm sao?

- Đừng lo.

Thẩm Mặc cười an ủi hắn:

- Ngươi chỉ cần để ý chi tiêu, tới lúc đó sẽ không thiếu tiền của ngươi.

- Không phải là ta không có lòng tin vào ngài.

Lúc này xung quanh đã không còn ai, Ngô Đoái cũng không quanh co nữa, thở dài nói:

- Chỉ là hiện giờ đang giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, cần tiêu rất nhiều tiền, nếu lại tiếp tục dùng nhiều tiền nữa thì triều đình lo làm sao xuể?

- Không cần lo lắng.

Thẩm Mặc mỉm cười nói:

- Binh bộ chỉ cần lo đánh trận, còn chi tiền để Hộ bộ lo.

- Không phải đều là tiền của triều đình cả sao?

Ngô Đoái cười khổ nói:

- Thôi bỏ đi, ta đúng là hoàng đế không vội mà thái giám đã vội, lo lắng những chuyện đâu đâu.

Nói xong định đứng dậy xin cáo lui, nhưng động tác có chút chần chừ.

- Giữa ta và ngươi còn có gì không thể nói?

Thẩm Mặc sao lại không nhìn ra cơ chứ.

- Nghe nói Đường Nhữ Tiếp đòi về làm thượng thư?

Ngô Đoái nói xong lại giải thích:

- Ta đối với vị trí này không có ý gì khác, chỉ là người này chưa từng lĩnh binh bao giờ, bây giờ đảm nhiệm được sao?

- Sở trường đặc biệt của hắn chính là lo lắng hậu cần.

Thẩm Mặc thản nhiên nói:

- Trước chúng ta đều tác chiến trong nước, chuyện hậu cần không có gì phải lo lắng, chỉ khi muốn chủ động xuất kích, thâm nhập vào thảo nguyên thì hậu cần lại trở thành một áp lực rất lớn.

Dừng một chút lại nói:

- Không nói ngoa chứ hậu cần chính là then chốt quyết định thành bại.cho nên dù bị người khác đàm tiếu, thì cũng phải để cho hắn giữ chức này.

Rồi lại nhìn Ngô Đoái:

- Hai ngươi chung sức hợp tác, một người phụ trách sản xuất quân nhu, một người phụ trách cung ứng hậu cần thì ta mới có thể yên tâm ra tiền tuyến.

- Ra tiền tuyến?

Ngô Đoái cả kinh:

- Ngài phải tự thân xuất mã sao?

- Sao lại không?

Thẩm Mặc chau mày lộ vẻ lo lắng:

- Tục ngữ nói, không đoàn kết chính là họa, tình cảnh của chúng ta bây giờ cũng không khác là mấy... Biên quân là của Sơn Tây bang, kinh quân là của huân quý, còn quân từ Đông Nam tới, ba nơi cũng không phải là loại lương thiện gì, sợ rằng còn chưa đánh nhau với người Mông Cổ, thì đã sống mái với nhau một trận rồi.

- Cũng phải...

Ngô Đoái gật đầu, đột nhiên nhớ tới lời đồn gần đây, bèn ướm hỏi:

- Bọn họ nhất quyết đòi hoàng thượng phong tước cho ngài phải không?

- Ừm...

Thẩm Mặc gật đầu không nói gì, nhưng có thể thấy tâm tình thật không tốt.

Về chuyện phong tước thì phải kể từ lúc Yêm Đáp hãn lại ngóc đầu dậy. Yêm Đáp sau khi trải qua thời kỳ suy yếu, một lần nữa tạo được uy danh trong các bộ tộc Mông Cổ, lần kéo quân này còn mạnh hơn trước đây, liên tục bảy lần quấy nhiễu các trọng trấn Kế trấn, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Cố Nguyên, nhưng đều phải trở về tay không, thậm chí còn phải chịu thiệt thòi.

Nguyên nhân sâu xa chính là, từ khi Thẩm Mặc chủ quản quân sự tới nay, thì bất cứ sự việc nào dù nhỏ của đối phương y cũng đều vô cùng quan tâm, tuyệt không không qua loa đại khái. Y biết rõ rằng, phòng thủ biên giới phía bắc có quan hệ tới vận mệnh của quốc gia, chuyện gì có thể qua loa chứ chuyện này thì tuyệt đối không thể.

Đầu tiên là điều binh khiển tướng, y điều tinh binh trong thiên hạ tới, hơn nửa là đến từ chín tỉnh tiền tuyến, bên Thiểm Tây văn có Vương Sùng Cổ cùng Trần Kỳ Học, võ có Lưu Hiển, Lý Tích cùng Khương Ứng Hùng; phía Tuyên Đại văn có Đàm Luân cùng Phương Phùng Thì, võ có Mã Phương, Doãn Phụng, Triệu Hà cùng Ma Quý; bên Kế Liêu văn có Tào Bang Phụ cùng Trương Học Nhan, võ có Thích Kế Quang, Lý Thành Lương, Lư Thang cùng Thang Khắc Khoan, tất cả đều là soái tài của Đại Minh, tinh hoa tụ hội, từ thời Vĩnh Lạc tới giờ mới thấy.

Đồng thời y cũng rất chú ý lắng nghe ý kiến của biên soái biên tướng. Không lâu sau khi y chấp chưởng Binh bộ, tổng đốc Kế Liêu Tào Bang Phụ kiến nghị thiết lập phòng ngự ở Kế trấn, cứ cách một dặm lại có một địch đài, bên trong địch đài đồn trú tinh binh, bình thường thì cảnh giới, đến khi đánh nhau thì có thể xung phong... Kế trấn là cửa ngõ của kinh sư, nếu Kế trấn bị phá thì kinh sư cùng các thành lân cận sẽ phơi bày trước miệng địch. Do đó để tranh cho việc hàng năm kinh sư đều rơi vào cảnh bị cảnh báo, Tào Bang Phụ đề nghị tăng cường phòng thủ Kế trấn.

(địch đài: nơi ẩn náu trên tường thành cho binh lính)

Mặc dù Tào Bang Phụ và Thẩm Mặc không hợp nhau, nhưng sau khi nhận được tấu chương của hắn, Thẩm Mặc lập tức trả lời: "Hôm qua đọc được tấu chương của ngươi, thấy quả thật là một biện pháp rất tốt. Binh bộ sẽ lập tức có công văn trả lời. Nhưng ngươi yêu cầu trong mỗi địch đài cần có năm mươi binh lính, như vậy một nghìn dặm phải cần năm vạn người, không biết năm vạn người này sẽ lấy từ binh đồn trú hay là điều từ nơi khác tới? Nếu lấy binh đồn trú thì việc thủ thành sẽ phải giao cho binh nơi khác, như vậy có thể xảy ra mâu thuẫn hay không?" Lại nói: "Mô hình địch đài ngươi gửi kèm về, chu vi là một trượng hai, dù đây chỉ là mô hình, nhưng ta ước chừng thực tế cũng chỉ gấp đôi thế này mà thôi, một nơi nhỏ như vậy sao có thể chứa được nhiều người, chưa kể còn y phục, lương thực và các đồ linh tinh nhét vào bên trong, không phải là quá hẹp sao? Cho nên ngươi cũng cần phải giải thích cho rõ.

Khi Tào Bang Phụ có giải thích thỏa đáng là y lập tức chấp nhận, còn tự mình đốc thúc, tốn mất một năm mới hoàn thành xong toàn bộ địch đài, phái binh vào trú, tạo cho kinh đô và các vùng lân cận một phòng tuyến vững chắc. Cũng chính phòng tuyến này đã chặn đứng gót sắt của Yêm Đáp, giúp cho kinh thành lần đầu tiên không phải nhận một tin cảnh báo nào.

Cũng từ chuyện này mà Tào Bang Phụ có cái nhìn khác về Thẩm Mặc, không còn mâu thuẫn như trước nữa.

Thẩm Mặc vô cùng quan tâm tới việc phòng bị, những việc mà các đại thần trước cho là không quan trọng thì y đều coi trọng. Tỉ nhu khi y biết được binh sĩ ở Du Lâm phải đi một, hai trăm dặm mới lấy được quân lương thì liền viết thư cho Vương Sùng Cổ: "Ta nghe nói một nhà mấy miệng ăn của binh sĩ đều phải dựa vào một thạch lương thực hàng tháng của hắn để sống, một thạch này không những phát chậm, lại còn bị cân thiếu, hơn nữa còn bắt bọn họ phải đi mấy trăm dặm mới lấy được. Tiền đi đường, tiền mướn xe thì ai trả bọn họ? Huống hồ gần đây binh sĩ nhiều nơi đều lấy lương tại một chỗ, như vậy bọn họ có thể ăn no được sao, có thể chống địch được sao? Ta tìm đọc điển tịch, biết mỗi nơi đóng quân đều có kho lương, cho người đi kiểm tra thì thấy mặc dù kho lương đã bị hao tổn, nhưng quy chế vẫn còn, quan viên trông coi cũng vẫn còn, sao không sửa đổi một chút, cho binh sĩ được lấy lương ở gần chứ? Việc này ngươi không cần dâng sớ, cứ thương lượng trực tiếp với lang trung quản lương tìm một biện pháp là được".

Thẩm Mặc là người như thế, đối với báo cáo gửi lên không chỉ đơn giản phê "Đồng ý" hay "Không đồng ý", mà là nghiên cứu kĩ càng nội dung của nó, đưa ra những suy xét cẩn thận, hơn nữa lúc nào cũng làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm, chuyện hôm nay chớ để ngày mai, không bao giờ y dây dưa chuyện gì. Nội các đại thần còn cẩn thận nghiêm túc như vậy, thì đám tổng đốc sao có gan chậm trễ?

Thẩm Mặc còn là người thưởng phạt phân minh, đối với tướng soái có công y chưa bao giờ tiếc ban thưởng, lúc nào cũng vì họ mà cố gắng tranh thưởng. Y không tính oán cũ, đề bạt Tào Bang Phụ, Vương Sùng Cổ, lại hết sức đề cao địa vị của văn võ biên quan. Thưởng sao phạt vậy, đối với những quan viên phạm sai lầm thì nghiêm khắc trừng trị, cho dù là tổng đốc cũng không có bất cứ ưu đãi nào... Ví như chuyện tổng đốc Tuyên Đại Hoắc Ký run sợ trước Yêm Đáp hay chuyện đám người hiếu chiến Mã Phương, Doãn Phụng khi truyền tới tai Thẩm Mặc đều bị y khiển trách, cho rời khỏi tiền tuyến, lại điều Binh Bộ Thị Lang Đàm Luân tới tiếp quản.

Nói tới việc thưởng phạt, y lúc nào cũng khuyên mọi người không đố kị, không đấu đá nội bộ, phải đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nhất trí để phòng thủ biên quan cho tốt.

Cứ thế các tướng soái dần dần quy thuận y, y đã trở thành tấm gương cho tất cả các tướng soái hướng tới. Trong lòng y không lúc nào quên sự an nguy của biên cương, cho nên tướng sĩ nơi nơi cũng đều chăm chỉ tập luyện, sẵn sàng đón địch, khiến cho Yêm Đáp không thể nào tiến lên một bước.

Vừa có danh tướng trấn thủ, lại có lương thần mưu tính, tới năm Long Khánh thứ ba Minh quân đã có nhiều biến chuyển... cán cân sức mạnh hai bên đã lặng lẽ chuyển dời.

Yêm Đáp không cam lòng chịu nhục nên lập quyết tâm tập trung lực lượng, tập trung đánh vào Tuyên Phủ theo kế của Hán gian Tiêu Cần hiến lên, Yêm Đáp tính toán cẩn thận, lệnh cho con là Tân Ái dẫn theo quân đi đánh nghi binh Úy châu, đợi đến khi Minh quân trúng kế xuất kích thì phái kỵ binh tinh nhuệ thừa cơ tấn công Tuyên Phủ, mưu đồ lập lại chiến tích đánh thắng nhanh gọn Tuyên Phủ như hồi năm bốn mươi hai Gia Tĩnh.

Nhưng nơi đây đã có Đàm Luân tọa trấn, nên lần này Minh quân không rút lui nữa, đợi tới khi Yêm Đáp dẫn binh gấp rút chạy tới Tuyên Phủ thì đã thấy binh sĩ Đại Minh bày trận chờ sẵn, thành cao hào sâu, chiến mã mạnh khỏe, tạo thành phòng tuyến vững chắc ngăn đại quân của hắn. Biết không thể thực hiện được âm mưu, Yêm Đáp lập tức quất ngựa chạy về phương bắc, Mã Phương nào chịu bỏ qua, lập tức dẫn quân theo truy sát hai trăm dặm, cuối cùng ở Trường Hải hồ cũng đại phá được quân chủ lực của Yêm Đáp.

Yêm Đáp đời nào chịu thiệt thòi, sau khi Mã Phương vừa mới khải hoàn thì hắn đã tập kết trọng binh đằng đằng sát khí đuổi tới lần nữa. Khi quân tiên phong của Yêm Đáp tới gần thì quân của Mã Phương vẫn còn đang ăn cơm, Mã Phương hay tin liền ném bát xuống đất, hô to với chúng tướng: "Tất cả theo ta giết địch!", rồi lập tức dẫn binh xuất chiến, đối đầu trực tiếp với Yêm Đáp quân ở Yên Tử sơn, sau một hồi khổ chiến cũng đã đánh cho Yêm Đáp phải tháo chạy một lần nữa.

Sau trận chiến Mã Phương sai người nấu đồ ngon, rồi đem chôn cùng với tướng sĩ chết trận. Khi Thẩm Mặc nghe được không khỏi khen ngợi: "Yêu binh như vậy mới là tướng tài".

Sau mấy lần ăn quả đắng ở Tuyên Phủ, Yêm Đáp đành phải thay đổi hướng tấn công, chuyển sang tập trung công kích Đại Đồng bên này, lần này Đàm Luân đã phán đoán sai lầm, lệnh cho tổng binh Đại Đồng Triệu Hà đem trọng binh tới đóng ở Tử Kinh, tuy đẩy lùi quân địch được một lần nhưng lại bị Yêm Đáp lập kế tránh nặng tìm nhẹ, tránh Tử Kinh mà đánh vào Hoài Nhân, Sơn Âm. Đàm Luân thấy vậy nổi cơn thịnh nộ, lệnh cho tổng binh Tuyên Phủ Mã Phương hoán đổi với tổng binh Đại Đồng Triệu Hà, để Mã Phương về Đại Đồng phòng bị Yêm Đáp. Đúng như dự đoán, Yêm Đáp hay tin liền tìm cách tránh mặt Mã Phương, không những không tấn công Đại Đồng mà còn quay đầu lại điên cuồng tấn công Tuyên Phủ, tới khi quân tiếp viện của Mã Phương về thì lại co giò tháo chạy lên phương bắc... Điều này không phải cho thấy Triệu Hà kém hơn Mã Phương, mà là Mã Phương đã đánh với Yêm Đáp hàng trăm trận, đại thắng rất nhiều, cho nên đã tạo thành uy danh hiển hách. Vừa nghe thấy Mã vương gia tới thì sĩ khí của kỵ binh Mông Cổ tắt ngấm, chỉ muốn chạy thật nhanh chứ không muốn phải đối mặt với hắn, tướng lĩnh bọn chúng có muốn trấn định lại cũng không đủ sức.

Đối mặt với Yêm Đáp chỉ biết bắt nạt kẻ yếu, trung thành với chiến thuật ngươi tiến ta lui, Mã Phương liền quyết định chủ động tấn công.

Ngay trong tháng này, Cẩm Y Vệ do thám được Yêm Đáp dẫn chủ lực đồn trú ở Hàm Ninh hồ, Mã Phương lập tức cho gọi Doãn Phụng, tập trung toàn bộ chủ lực xuất kích. Trước trận chiến Mã Phương nghiêm lệnh tam quân, toàn quân vứt bỏ quân nhu vật tư, mỗi người chỉ mang theo khẩu phần lương thực cho ba ngày, với quyết tâm liều chết. Ngày bảy tháng sáu toàn quân xuất phát, dọc theo đường đi giữ im lặng tuyệt đối, người không nói một câu, ngựa không hí một tiếng, âm thầm hành quân trong tám ngày thì tới gần Hàm Ninh hồ mà không hề bị Yêm Đáp phát hiện. Tới hừng đông ngày thứ chín Mã Phương ra lệnh tổng tiến công, trước dùng hỏa khí công kích, gia binh tinh nhuệ của Mã Phương từ hai cánh của doanh trại quân địch bất ngờ ập vào, còn Mã Phương dẫn chủ lực đánh vào chính diện, Doãn Phụng thì lĩnh quân chặn giết A Lặc Thản trên đường hắn tháo chạy. Bị đánh bất ngờ không kịp phòng bị, Yêm Đáp tiếp tục phải dẫn quân tháo chạy, nhưng không may lại rơi vào vòng vây của Mã Phương, toàn quân bị Mã Phương mặc sức chém giết. Quân Yêm Đáp lúc này hoảng loạn vứt bỏ đội ngũ, dẫm đạp lên nhau cố chạy thoát thân.

Qua một đêm huyết chiến, cuối cùng Yêm Đáp không chống nổi phải bỏ chạy, Minh quân đuổi sát theo sau, một đường từ Hàm Ninh hồ truy sát tới phía tây hơn mười dặm. Cuộc chiến này khiến cho quân đội của Yêm Đáp bị thương vong nặng nề, thủ lĩnh các bộ lạc bắt được hơn mười người, quân nhu chiến mã thu được vô số, tạo thành trận thắng lớn nhất sau chiến thắng ở Vạn Toàn hữu Vệ. Đàm Luân ở hậu phương sau khi đọc xong chiến báo hết sức vui mừng nói: "Đại Đồng tạm thời vô sự rồi!".

Tin vui truyền tới kinh thành, hoàng đế liền mở tiệc mừng công, tự mình tới Thái miếu cáo tế tổ tông, thưởng lớn cho chư tướng. Mã Phương thăng làm chính nhất phẩm thái bảo, đại đô đốc; Đàm Luân, Doãn Phụng được phong làm thái tử thái bảo, còn lại các tướng lĩnh cũng đều có thưởng, mọi người đều vui vẻ.

Ngay tại lúc ban thưởng, tả phó Đô ngự sử Trâu Ứng Long đề xuất thứ phụ Thẩm Giang Nam phụ trách việc quân vất vả, công lao càng lớn, lại còn đại thắng Vạn Toàn hữu Vệ năm đó cũng nhờ sự chỉ huy của y mới có được, mong hoàng đế phong tước cho y. Sau khi nói xong liền có rất nhiều quan viên phụ họa theo, vì xin cho y được phong tước mà dâng tấu chương lên rào rào.

Long Khánh vốn đang cao hứng, hơn nữa lại cảm thấy áy náy với Thẩm Mặc về việc để Cao Củng lên làm tể phụ, từ lâu đã muốn đền bù cho y một chút, nên không nghĩ ngợi gì mà hạ chỉ yêu cầu Lễ bộ định ra tước phong rồi báo cáo lên.

Tin tức truyền ra, Thẩm Mặc thì không nói gì, còn Thẩm Minh Thần mắng: "Thế này có khác nào làm hại cha..."

Mặc dù không có quy định rõ ràng, nhưng người được phong tước không thể nằm trong nội các, điều này mọi người đều thầm chấp nhận. Nhưng Thẩm Mặc lại chẳng có cách nào chối từ, bằng không chắc chắn sẽ bị người khác cho rằng dã tâm bừng bừng, quả thật thoáng chốc đã rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Sau khi phân tích rõ nguyên nhân hậu quả của việc phong tước, Vương Dần nói với Thẩm Mặc rằng dường như y đã bị rơi vào một âm mưu nào đó, chỉ là không biết ai đang đứng sau màn thao túng mà thôi.

Thẩm Mặc cười khổ nói:

- Ta cảm thấy rất quen thuộc, ngoại trừ hảo lão sư của ta ra ta cũng không nghĩ ra còn người nào.

Nói rồi hơi thở dài:

- Ta vẫn đợi lão trả thù, cuối cùng bây giờ cũng đã tới rồi, dù trong lòng kiên định nhưng quả thật vẫn thấy khó đối phó.

Thì ra Từ Giai đã sớm biết nhược điểm của y là gì... Thẩm Mặc thân là nội các đại thần mà lại nắm giữ quân quyền của Đại Minh, đây chính là điểm yếu chết người của y.

- oOo-

Thật ra Đại Minh chưa từng có quy định bá tước không thể làm trong nội các, nhưng điều này cũng không phải không có đạo lý, bởi vì Thái tổ hoàng đế quy định, ngoại trừ quốc trượng thì không có quân công không được phong tước, hơn nữa còn phải là quân công cực lớn mới được, còn như dẹp loạn khởi nghĩa nông dân hay đánh mấy trận với người Mông Cổ thì còn xa mới đủ. Ít ra cũng phải cỡ như Dương Minh Công bình định Ninh Vương mới được, phải thắng được một trận mà liên quan tới vận mệnh quốc gia.

Cho nên quan văn được phong bá tước chẳng khác nào được dán trên mặt mác "Quân công hiển hách", thử hỏi nhân vật như vậy làm sao có thể khiến mọi người yên tâm khi hắn lại còn được nắm thực quyền nữa chứ? Không phải là bởi vì tâm lý bề trên sợ phản loạn hay sao?

Thẩm Mặc cũng chẳng lo lắng cho tiền đồ của mình, bởi vì y là người được tôi rèn trong khó khăn, không có chuyện gì có thể khiến y bận tâm. Quân công có lừng lẫy thì cũng chỉ củng cố thêm địa vị cho bản thân một chút, chí ít khi Long Khánh còn tại vị thì không ai có thể làm gì được y. Nhưng y cũng không định nhận các tước này, y đã viết một tấu chương nói với hoàng đế rằng, công lao của mình rất bình thường, không xứng được triều đình ban tước, xin vì nước xuất chinh, nếu đánh đuổi được Thát Lỗ, làm cho thiên hạ thái bình thì lúc đó nhận phong cũng không muộn.

Không phải là y không muốn cái bá tước này, chỉ là cảm thấy bản thân còn chưa đủ tư cách. Vậy đến lúc nào mới có tư cách? Chính là đến lúc suất lĩnh đại quân, đuổi hết người Mông Cổ ra khỏi lãnh thổ Đại Minh, lúc đó mới thích hợp, rất có phong phạm của Hán tướng quân Hoắc Khứ Bệnh: "Hung Nô chưa diệt, sao có thể nghĩ về nhà".

Thật ra khi Thẩm Mặc còn ở phương nam cũng đã có kế hoạch, định trong tương lai rời khỏi kinh thành một thời gian. Thứ nhất là vì chiến dịch lần này có quan hệ đến vận mệnh quốc gia, quân đội ở tiền tuyến lại do nhiều nơi tụ lại mà thành, ngoại trừ bản thân y ra thì không ai có thể phối hợp được các bên cho hoàn hảo cả, lấy đại cục làm trọng nên y đành vứt bỏ được mất cá nhân trước mắt. Mặt khác dù y và Cao Củng đang trong thời kỳ hòa hoãn, nhưng cổ nhân có câu một núi sao có thể có hai hổ, trước nay chưa từng có sai. Theo quá trình cải cách, quyền lực của Cao Củng cũng lớn mạnh lên, sẽ rất khó để duy trì mối quan hệ hòa hảo như hiện nay, cho nên tốt nhất là y cứ chuẩn bị bước đi cho mình.

Nào ngờ y chưa kịp trình lên hoàng thượng thì đã có người chen vào trước, sống chết xin phong tước cho y. Thẩm Mặc cũng không ngại thuận nước đẩy thuyền, tỏ ra điệu bộ công chính liêm minh, khiến cho mọi người cũng chẳng thể nói được gì về việc y cho Từ Giai về vườn.

Chỉ là dù Từ lão đã về vườn nhưng vẫn kịp giăng cho y một cái bẫy, khiến cho Thẩm Mặc căm tức không biết làm sao, vốn lúc đầu dự định nước sông không phạm nước giếng, nhưng giờ xem ra không thể khách khí với lão được nữa.

Cũng giống như Cao Củng và Trương Cư Chính, buổi sáng Thẩm Mặc ở trong nội phụ, buổi chiều lại về Binh bộ, cho nên nếu có việc gì thì lại phải chờ tới sáng ngày hôm sau mới thương nghị được.

Trong ngày hôm nay có ba sự kiện quan trọng, một là có Ngôn quan dâng sớ, cho rằng Cao Củng đã là nội phụ nhưng lại chậm trễ từ nhiệm Lại bộ thượng thư, khó tránh khỏi có người nói chuyên quyền kết đảng. Hy vọng hoàng đế có thể nhanh chóng bổ nhiệm người mới, tránh cho Cao lão bị người dị nghị.

Đối với tấu chương này, Cao Củng ủy khuất nói:

- Ta đã trình lên hoàng thượng xin từ chức, nhưng thánh thượng không chịu đáp ứng ta có thể làm sao?

Lời này nghe qua ai cũng biết là không thật, có điều cũng đủ để mọi người biết trong lòng ông ta nghĩ gì... Mạnh Tử nói, cá và tay gấu chỉ được chọn một, nhưng Cao lão rõ ràng là đang muốn cả hai. Cho nên các quan viên cũng đành im lặng mặc ông ta muốn làm gì thì làm.

Lại nói Cao lão dường như không để ý, nội phụ không thể kiêm nhiệm Lại bộ thượng thư, đây là lệ từ khi khai quốc đến giờ. Huống chi Cát Thủ Lễ đã trở lại kinh thành, mặc dù trong thánh chỉ không nói rõ nhưng mọi người cũng đều biết, Cát lão trở về để thay thế Dương Bác đảm nhiệm chức Lại bộ thượng thư, dựng lại ngọn cờ cho Tấn đảng.

Nhưng Cao Củng ỷ thế được hoàng thượng dung túng, nhất quyết không chịu từ nhiệm, Cát Thủ Lễ thì không tính toán, nhưng những người khác trong Tấn đảng lại không để yên... Cao lão này có chuyện gì vậy, mọi người vẫn là minh hữu chứ, sao lại làm việc không nhìn mặt nhau thế này?

Kỳ thật Cao Củng cũng là bất đắc dĩ, lại trị cải cách của ông vừa mới triển khai, chính là lúc phải có quyền lực, phải có thời gian, nếu như nhường chức thượng thư cho người khác làm thì chắc chắn cải cách sẽ bị ảnh hưởng lớn. Vì muốn cải cách thuận lợi, ông đành phải khiến cho minh hữu chịu thiệt trước, thật ra ông vô cùng kính phục Cát Thủ Lễ.

Bù lại ông định để Cát Thủ Lễ làm tả Đô ngự sử, đương nhiên việc này cũng chưa đủ để đền đáp lại ân tình, Cao Củng biết rất rõ, chỉ có cựu thần chính trực cứng rắn như Cát Thủ Lễ đây mới có thể dẫn dắt Ngôn quan từ từ đứng dậy, khôi phục lại sĩ khí cho bọn họ.

Thấy không ai nói gì, Cao Củng liền nhân lúc bọn họ chưa kịp phản ứng mà ỉm đi tấu chương kia, sau đó lại đưa ra một cái khác: "Đây là tấu chương do Hộ bộ và Binh bộ liên hợp tấu lên, làm công trái cho chiến tranh, các vị có ý kiến gì không?

- Là dự định thôi.

Trương Cư Chính bổ sung:

- Công trái hai nghìn vạn lượng bạc ba lần trước thì do Nhật Thăng Long mua bảy phần, Hối liên hào mua ba phần... Sau đó còn nói nếu như còn bán thì còn mua.

- Vay tiền chiến tranh à...

Cao Nghi từ đầu vẫn im lặng giờ cũng không nhịn được nói:

- Trước giờ chưa từng thấy.

- Chẳng qua là trước đây không ai muốn vay mà thôi.

Cao Củng cười rộ lên:

- Chiến tranh có người bỏ tiền ra, không cần quốc khố phải lo, chuyện tốt như vậy giờ ta mới biết.

- Nhật Thăng Long cũng không phải thật lòng muốn giúp triều đình.

Trương Cư Chính thản nhiên nói:

- Bọn họ còn có điều kiện... Sau khi thu được vùng Hà Sóc thì phải cho bọn họ mặc quyền khai thương trong hai mươi năm, triều đình không được giữa chừng đổi ý.

- Lý nào lại vậy!

Cao Nghi nghe vậy biến sắc nói:

- Vậy chẳng phải là triều đình đánh nhau hộ bọn chúng sao? Nếu như không có tiền thì thôi không đánh, việc gì phải vì chút thể diện mà đi khai chiến hao tài tốn của chứ?

- Cũng không hẳn như vậy.

Lúc này Thẩm Mặc mới nói:

- Thứ nhất, cửu biên tập trung năm vạn quân, hơn nữa còn chiến mã, tính ra mỗi ngày tốn gần mười vạn lượng, nếu như chần chờ không đánh thì không những sĩ khí giảm sút, mà triều đình cũng tiêu tốn không gượng dậy nổi. Thứ hai, Kế Liêu đối mặt với Thổ Man bộ lạc cùng Đóa Nhan tam vệ, Tuyên Đại đối mặt với Yêm Đáp phía bên trái, còn Cam Thiểm phía bên phải. Địch yếu ta mạnh, đương nhiên có thể chiến thắng, hơn nữa còn có thể thắng nhàn. Ba là nếu như thành công, thì đường từ Cam Thiểm sẽ được rút ngắn, có thể tiết kiệm binh lực cùng vật lực, trợ giúp Tuyên Đại, Kế Liêu, tiện thể thiết lập an bình cho toàn bộ cửu biên.

Y nâng chung trà lên nhẹ hớp một ngụm, chậm rãi nói:

- Bốn là việc khai thông vùng biên luôn là vấn đề làm đau đầu triều đình, nếu làm thì rất tốn công tốn của, làm nhiều thu ít, giống như dùng rổ tre đựng nước vậy; nhưng nếu không làm thì cũng không được, nếu không làm thì không có cách nào giữ chắc biên cương, hàng năm sẽ tốn rất nhiều tiền đổ vào quân đội. Bây giờ Nhật Thăng Long, hay thậm chí là Sơn Tây thương nhân muốn sau chiến tranh thay triều đình làm việc, hơn nữa sau ba năm bọn họ còn nộp thuế... Cho dù bọn họ làm không đúng ý chúng ta thì cũng không nên siết chặt, quân đội là của chúng ta, quan viên cũng là của chúng ta, muốn bọn họ dừng lúc nào chẳng được.

- Đây chỉ là thử nghiệm với vùng Hà Sóc, nếu thành công thì sau này có thể mở rộng ra Liêu Đông.

Cao Củng tiếp lời, ánh mắt sáng lên:

- Đất đai quan ngoại chính là kho lúa lớn ở phương bắc, điều này có ý nghĩa gì với Đại Minh, không cần phải nói chứ?

- Nguyên ông quả là người nhìn xa trông rộng.

Trương Cư Chính bợ đỡ:

- Chúng tôi còn đang lo Hà Sóc, ngài đã nghĩ tới Liêu Đông rồi.

Thấy ba người thống nhất ý kiến, Cao Nghi cũng không thắc mắc nữa, nhưng vẫn hơi lo lắng hỏi:

- Dù sao cũng phải thận trọng, tránh bị điều tiếng. Ngoài ra cũng cần phải biết bọn họ định làm thế nào chứ?

- Trồng trọt thì sẽ trồng lương thực và bông sợi, chăn nuôi thì sẽ nuôi ngựa và cừu.

Thẩm Mặc đã sớm chuẩn bị mọi việc, giờ đưa ra cũng chỉ cần chờ phê chuẩn là xong:

- Trồng lương thực và nuôi ngựa là do triều đình yêu cầu, đến lúc đó sẽ do Hộ bộ và thái bộc trực tiếp thu thuế... Hai loại này có ý nghĩa với triều đình thế nào chắc Nam Vũ huynh cũng biết. Về phần trồng bông vải và nuôi cừu thì do bọn họ đề xuất.

- Mục đích bọn họ để làm gì?

Cao Nghi hỏi.

- Trồng bông vải theo nhu cầu của sản xuất. Tô Châu viện và Âu Dương phường cùng một loạt các xưởng khác đã mở rộng, hiệu suất của các cơ sở sản xuất bông vải cũng được tăng cao, mà đất trồng ở Đông Nam thì có hạn, dẫn đến giá cả leo thang. Ngoài ra vì thương nhân Sơn Tây vẫn muốn nắm giữ kinh tế Đông Nam, cho nên bắt buộc bọn họ phải nghĩ tới Hà Sóc. Các cơ sở sản xuất còn yêu cầu một lượng lớn lông cừu...

Thẩm Mặc kiên trì giải thích:

- Đối với mậu dịch hải ngoại, bông vải là nguồn thu lớn ổn định, còn lợi nhuận từ tơ lụa cũng không phải là nhỏ, cho nên bọn họ muốn khống chế từ khâu nguyên vật liệu.

- Thì ra là thế...

Nghe Thẩm Mặc nói xong Cao Nghi lập tức hiểu rõ, không khỏi thở dài:

- Để kiếm tiền mà những thương nhân này cái gì cũng dám làm.

- So với để cho bọn họ buôn lậu nguyên vật liệu, câu kết với người Mông Cổ thì thế này còn tốt chán, chí ít như thế bọn họ sẽ phải cần yên bình, nói không chừng còn có thể có ích với chúng ta.

Cao Củng cảm thấy không cần dây dưa vấn đề này nữa, bèn khoát tay chặn lại:

- Điều tiếng người đời thì làm sao? Không bị người đố kị mới là tầm thường, Giang Nam ngươi chỉ cần mặc sức mà làm, việc phía sau cứ để bọn ta lo, kẻ nào không biết điều nói xằng bậy ta sẽ xử kẻ đó trước!

Sau tuyên bố đằng đằng sát khí của Cao Củng, chuyện này cũng coi như đã định.

- Còn một việc.

Cao Củng nhìn báo cáo trong tay nói:

- Sau khi thí điểm đo lại đất, chia lại ruộng xong, cũng đã tiến hành ở ba tỉnh Đông Bắc Nam trực, Giang Tây cùng Sơn Đông được ba tháng...

Đến đây ông nhíu mày lại:

-... nhưng kết quả lại không được như ý... Ngoại trừ Giang Tây cơ bản là xong thì ở Nam trực và Sơn Đông đều bị thân sĩ địa chủ nhất quyết chống đối, bọn họ phái người giả mạo nông dân, xua đuổi nhân viên đo đạc của quan phủ, thái độ chống cự rất mạnh mẽ. Hộ bộ phái quan viên nào tới cũng bị bọn họ vừa đấm vừa xoa, công tác hoàn toàn bị đình trệ.

Mọi người thầm nghĩ việc này đương nhiên phải thế, bởi vì cái gọi là đo lại đất, chia lại ruộng chính là việc phân chia lại đất đai, quyền sở hữu của họ, xác định cấp độ nộp thuế của họ, sau đó triều đình dựa vào đây để tiến hành thu thuế, chính là Nhất điều tiên pháp. Đối với tá điền và nông dân mà nói thì không thể nghi ngờ đây là chuyện chỉ lợi vô hại, nhưng đối với hầu hết thân sĩ địa chủ mà nói thì việc này có ảnh rất lớn tới quyền lợi của họ.

Nhưng không làm không được, từ khi Trương Cư Chính nắm giữ Hộ bộ đến nay, vẫn vắt óc suy nghĩ tìm cách mở rộng nguồn thu, tăng thu nhập, lúc này những thuế có thể tăng thì cũng đã tăng hết cả... Lấy mấy tỉnh làm thí điểm mà nói, thuế thu của nông dân đã tới giới hạn, không thể tiếp tục tăng thêm nữa, vì nếu như vậy không phải là mở rộng nguồn thu, mà đơn giản chỉ là cướp đoạt mồ hôi nước mắt của dân mà thôi.

Nhưng ai cũng biết, tiền thuế thật sự thu được có thể tăng lên gấp đôi, nhưng chỉ bởi vì bị bọn thân sĩ địa chủ giấu diếm, trốn thuế, không khai báo lên trên. Theo như Cao Củng nói, nếu không khai đao với những người này mà chỉ chăm chăm thu thuế của dân, thì so với tạo phản có khác gì nhau?

- Chuyện này nói khó khăn thì quả thật khó như lên trời.

Trương Cư Chính khẽ nói:

- Nhưng phải hạ quyết tâm làm, hơn nữa cũng không phải không thể làm được.

- Nói.

Cao Củng vung tay lên, không khách khí nói.

- Vì sao Giang Tây có thể phổ biến Nhất điều tiên pháp trước? Ngoài năng lực xuất chúng của Bàng Thượng Bằng, thì nguyên nhân sâu xa chính là ở thời kỳ Chính Đức, Ninh Vương đã quét sạch mọi thế lực tông phiên ở đây; tới thời Gia Tĩnh thì thanh toán Nghiêm đảng, khiến cho hào môn Giang Tây điêu đứng, cho nên sự cản trở đối với cải cách giảm đi rất nhiều.

Trương Cư Chính tự tin thản nhiên nói:

- Cho nên muốn phá được cục diện bế tắc hiện nay, thì chỉ có cách thẳng tay với mấy hào môn cùng tôn thất để làm gương, sau đó tất cả đương nhiên sẽ ngoan ngoãn nghe lời.

- Nhà nào?

Cao Củng hỏi tới?

- Lỗ Vương cùng Khổng gia ở Sơn Đông...

Trương Cư Chính mặt vô cảm nói:

-... Tùng Giang của Nam trực.

Lời vừa nói ra cả sảnh đường ai nấy đều kinh hãi, tất cả mọi người đờ đẫn, Thẩm Mặc mắt cũng trừng to nhìn Trương Cư Chính, dường như muốn đánh giá lại con người này.

- oOo-

Vì sao khi Trương Cư Chính nói ra ba cái tên lại có thể khiến mọi người sửng sốt như vậy?

Là một tể tướng không nhất thiết phải biết rõ tất cả cường hào đại hộ ở các nơi, nhưng đối với hắn, ba nhà này cũng không có gì xa lạ.

Trước tiên là nói về Sơn Đông, họ Khổng có rất nhiều, nhưng có thể xưng là "Khổng gia" duy nhất chỉ có một, đó là hậu duệ của "Đại thành chí thánh tiên sư", được Hồng Vũ hoàng đế sắc phong làm "Diễn thánh công", danh tước được đời đời thế tập - Khổng gia ở Khúc Phụ. Mọi người vẫn truyền nhau rằng "Vương triều có đổi thay, nhưng Khổng gia vẫn vĩnh viễn tồn tại", quả thật xứng đáng với đệ nhất thế gia Hoa Hạ, tới nay đã truyền được sáu mươi bốn đời.

Đối với ác danh của vị Diễn thánh công này các quan có thể nói là nghe nhiều nên thuộc... Bởi vì các đời hoàng đế đều tôn kính bọn họ, cho nên thế lực của Khổng gia bành trướng một cách đáng sợ, không chỉ toàn bộ Tể Ninh là tá điền của họ, thậm chí ngay cả Tế Nam phủ, Tào châu cùng Đông Bình châu gần cạnh cũng bị bọn họ chiếm hữu không ít. Khổng Tử năm đó chu du các nước du thuyết lễ giáo, thân không mảnh đất cắm dùi, hoảng sợ như chó nhà có tang, chắc không thể ngờ con cháu sau này lại như vậy, tìm mọi cách vơ vét của cải, mở rộng đất đai, trở thành mối họa của địa phương.

Về Lỗ Vương phủ, năm đó sau khi Chu Nguyên Chương thống nhất thiên hạ, đã phong đất cho ngũ đệ và thất đệ của mình ở Sơn Đông, phong hào lần lượt là Tề Vương và Lỗ Vương. Nhưng Tề vương phủ đã bị trừ bỏ thời Hồng Vũ, dòng dõi đã tuyệt. Lỗ vương phủ thì ngược lại, ngày càng phát triển lớn mạnh, sinh sôi nảy nở cho tới bây giờ đã được sáu đời, hiện nay con cháu có tới mấy nghìn người, ruộng đất hơn mười vạn khoảnh.

Ruộng đất của Khổng gia và Lỗ gia chiếm hữu đã chiếm đến hơn một phần ba của cả tỉnh Sơn Đông. Hơn nữa vì một nhà là thế tập công tước, một nhà là khai quốc thân vương, theo chế độ cũ thì được hoàng thượng miễn thuế hoàn toàn. Nhưng lật lại hồ sơ từ lúc khai quốc tới giờ, tổng số ruộng đất mà triều đình ban cho phủ Diễn thánh công không quá hai mươi vạn mẫu, ban cho Lỗ vương phủ chỉ có tám vạn mẫu. Có điều hai nhà này dựa vào thế lực khổng lồ ở địa phương, không ai dám động tới, bất chấp vương pháp sáp nhập thêm nhiều ruộng đất, trốn thuế nhiều năm.

Bởi có hai nhà này đi đầu, vì vậy các địa chủ nơi đây cũng có nơi nhờ cậy để chống đối lại triều đình, khiến chính sách ích nước lợi dân "Đo lại ruộng đất" ở Sơn Đông không thể tiến hành.

Về phần Tùng Giang cũng không khác là mấy, thậm chí còn khó khăn hơn. Bởi vì đại địa chủ chính là Từ lão gia, ai mà có gan xuống tay với lão? Cho nên cũng không có tiến triển gì.

Nghe xong mấy lời Trương Cư Chính nói ra, tất cả mọi người bên trong nuốt nước bọt ừng ực. Cao Nghi trước nay ôn hòa cũng không nhịn được mà tức giận nói:

- Một nhà mà chiếm hết ruộng đất, bách tính sao có thể nhẫn nhịn được, sao mà không tạo phản cơ chứ?

- Nam Vũ huynh, việc này có thể huynh đã nhầm, thực tế mỗi lần quan viên chúng ta bị đuổi, thực sự đều là do chính nông dân làm...

Trương Cư Chính bất đắc dĩ thở dài:

- Địa chủ và nông dân không đứng về phía chúng ta, cho nên bọn họ cũng không hề sợ hãi mà chống đối triều đình.

- Sao lại có thể như thế?

Cao Nghi khó hiểu hỏi.

- Những nông dân này tự nguyện mang ruộng đất hiến cho đại hộ, từ nông hộ biến thành tá điền - cái này gọi là đầu hiến. Phong trào đầu hiến đã bắt đầu từ vài chục năm trước, hiện giờ đã càng ngày càng nghiêm trọng, dân chúng ở những nơi này có tới hơn bảy phần là muốn hiến đất cho hào môn đại hộ. Bởi vì sau khi quan phủ thẩm tra xong, bọn họ sẽ không phải nộp thuế nữa, chỉ phải nộp cho các đại hộ số tiền cho thuê ruộng mà thôi. Đương nhiên số tiền này ít hơn thuế của triều đình, bằng không các nông hộ cũng không đầu hiến. Mà đại hộ ỷ vào đặc quyền không phải nộp thuế của mình, hàng năm tiền thuê ruộng đất thu về không dứt.

- Thực sự là biết cách vơ vét của cải.

Cao Củng cắn răng, oán hận mắng:

- Đây chẳng phải là kiếm lời trên tiền thuế của quốc gia sao, lẽ nào mắt của nha môn đều đui mù, dùng để trang trí thôi sao? Sao lại để mặc bọn chúng đục khoét như vậy?

- Thực ra nha mông từ trước đến nay chính là quản dân không quản quan.

Trương Cư Chính thản nhiên nói:

- Những đại hộ này hoặc là có vương công quý tộc, hoặc là có người làm quan lớn, đừng nói là huyện lệnh, cho dù là tri phủ, tuần phủ cũng không dám đắc tội.

- Không làm theo vương pháp để tiểu nhân lợi dụng, làm ảnh hưởng tới lợi ích chung, không trừ sao còn làm tể tướng!

Cao Củng vỗ án:

- Ta không tin bọn chúng vuốt râu hùm mà còn vô sự!

Nói rồi trợn mắt:

- Bọn chúng càng chống đối càng nói rõ chính sách "Đo đạc đồng ruộng" là dúng đắn, là nhằm vào mệnh môn của bọn chúng.

- Đúng thế, chỉ cần ghi lại rõ ràng ruộng đất của từng nhà, thì dù là thế hào địa chủ cũng phải ngoan ngoãn mà nộp thuế.

Trương Cư Chính gật gật đầu:

- Nguyên ông nói đúng, bọn họ càng sợ lại càng nói rõ chúng ta đã tìm đúng nhược điểm của bọn họ. Chỉ cần chúng ta cương quyết tiến hành là có thể giải quyết được mọi vấn đề.

Cao Nghi gật đầu liên tục, rõ ràng là đã bị sự hăng hái của hai người tác động.

Thẩm Mặc dù cũng đồng ý, nhưng y không thích cách làm này của Trương Cư Chính. Theo y thấy, mặc dù có thể áp chế hào môn đại hộ, tăng nguồn thu cho triều đình, thậm chí có thể tăng rất nhiều, nhưng cái được không đủ bù cái mất. Bởi làm thế sẽ đắc tội với cường hào địa chủ trong cả nước, mà cường hào địa chủ là loại người gì? Là vương công quý tộc, quan lại thân hào. Đơn giản mà nói chỉ là bốn chữ, chính là giai-cấp-thống-trị ngoài hoàng đế ra.

Y vẫn tin rằng gây thù chuốc oán thì cải cách sẽ không thể thành công, trừ phi dùng tới bạo lực. Mà để cải cách thành công, không thể dựa vào một phía là được. Nói chung miếng bánh lớn phải chia cho mọi người cùng hưởng, khiến cho giai cấp cũ cũng phải có được lợi ích, như vậy cải cách mới có hy vọng.

Đại Minh hiện nay mặc dù công thương nghiệp đang phát triển mạnh mẽ, nhưng thực ra vẫn nằm trong tay hào đại hộ. Những người này có thế lực chính trị cực lớn, Đại Minh cũng không có lực để khống chế đối với Đông Nam, không cách nào được thu thuế của công thương nghiệp. Đối với sự phát triển của công thương nghiệp đã không thể làm gì hơn.

Tầng lớp này tạm thời gọi là "Tư bản quan liêu", mặc dù cũng có ý muốn tiến bộ, nhưng phần nhiều vẫn là bảo thủ... Bởi vì công thương nghiệp chẳng qua chỉ là công cụ vơ vét của cải của bọn họ, chứ chưa phải là gốc rễ, sinh mệnh của bọn họ. Do đó sẽ có người mềm yếu, sẽ có người bảo thủ, dẫn đến xã hội không thể tiến bộ.

Điều mà Thẩm Mặc mong chờ chính là công thương nghiệp phải được bành trướng, mậu dịch với hải ngoại phát triển cực nhanh, mạnh, trở thành tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. Chỉ khi có những người này mới có thể tiến bộ triệt để được, sẽ đưa việc tư hữu, không được xâm phạm cá nhân thành khuôn mẫu. Y cũng sẽ theo đuổi quyền lực, cũng vì không đủ thời gian, y đành phải xuất ra dã tâm cùng lực lượng để thay đổi thiên hạ.

Vốn Thẩm Mặc cho rằng để ngày tầng lớp này trưởng thành cũng ít nhất phải đợi đến khi y già mới được. Nhưng thiên hạ biến hóa, giai cấp công thương đã bắt đầu bừng bừng sinh cơ... Về điểm này khi y còn ở phía nam cũng đã thấy được trên báo thảo luận về mười hai biến pháp rất hăng hái, thấy những người đọc sách xuất thân từ gia đình trung tiểu công thương nghiệp đã nghiêm túc thảo luận vấn đề tư hữu. Y liền biết rằng chỉ cần thời điểm và hoàn cảnh thích hợp, thì công thương nghiệp bị đè nén hàng nghìn năm sẽ xuất ra một lực lượng kinh người thế nào.

"Có khi không tới hai mươi năm, giai cấp ta chờ đợi sẽ bước lên vũ đài chính trị?" Thẩm Mặc thầm nghĩ trong lòng, để có thể chờ đến lúc đó giúp cho bọn họ chút sức lực, tốt nhất bây giờ phải bảo vệ bản thân cho tốt mới được...

Mặc dù ý niệm bất đồng, nhưng trong thời gian dài lúc đầu thì phương hướng của Thẩm Mặc cùng Cao Củng, Trương Cư Chính là giống nhau. Bởi vì khi cương quyết thực hiện đo đạc đồng ruộng, thì sẽ khiến cho thế hào đại hộ chuyển dời sang công thương nghiệp, do đó sẽ khiến cho công thương nghiệp được đẩy mạnh nhanh chóng. Mặt khác.y cũng yêu cầu Cao Củng, Trương Cư Chính nghiêm khắc trừng trị thế hào đại hộ, để hạn chế quyền lực bọn họ, lấy không gian rộng rãi cho giai cấp công thương nổi lên.

Cho nên Thẩm Mặc định tạm thời rời kinh thành một thời gian, để tránh khỏi việc bị kẹp giữa thế hào đại hộ cùng Cao Củng.

- Giang Nam...

Tiếng gọi khiến y bừng tỉnh, Thẩm Mặc bình tĩnh lại, thấy mọi người đều đang nhìn mình thì hơi xấu hổ, ho nhẹ một tiếng:

- Nghĩ đến có chút xa...

Mọi người biết y chưa bao giờ mặn mà với cải cách, cho nên cũng không để ý, Cao Củng liền nói:

- Phương Thái Nhạc nói muốn phái Tôn Phi Dương đến Sơn Đông, Lâm Nhuận đến Tô Tùng, ý ngươi thế nào?

Toàn là đồng niên của y, chả trách phải hỏi y.

- Tôn Lập Sơn ta nghĩ nên tới Tây Bắc.

Thẩm Mặc suy nghĩ một chút, chậm rãi nói:

- Để Lâm Nhuận tới Sơn Đông là tốt nhất, năng lực của hắn xuất chúng, chính trực mà không cổ hủ, linh hoạt mà có nguyên tắc, chính là người tốt nhất để chọn.

- Rất tốt.

Cao Củng với đề nghị của Thẩm Mặc từ trước tới nay chưa từng nghĩ ngợi, lập tức đồng ý:

- Còn Tô Tùng?

Ông biết Tô Châu là địa bàn của Thẩm Mặc, cho nên muốn nghe ý của y.

- Tình hình của Tô Tùng thì có hơi phức tạp.

Thẩm Mặc chậm rãi nói:

- Tùng Giang tập trung nhiều đại thần, tiến sĩ từ thời Cảnh Thái nhiều như trâu, thời Thành Hóa cùng Hoằng Trị còn có tể phụ, nói về thực lực chính trị còn vượt xa vương công Sơn Đông, cần phải có một người hiểu rõ nơi này, lại không liên quan tới bên nào, một lòng chỉ nghĩ tới việc công, không bị nơi nào lôi kéo mới được.

Cao Củng trong lòng muốn cười, thầm nghĩ: "Ngươi nói thẳng ra là xong, việc gì phải vòng vo?", nhưng lại nói:

- Nếu như vậy ta thấy không phải Hải Cương Phong thì không được...

- Nguyên ông anh minh.

Thẩm Mặc thản nhiên nói.

- Điều này...

Lần này tới lượt Trương Cư Chính trợn tròn mắt, khó khăn nói:

- Thứ cho ta nói thẳng, Hải Thụy quá mức cương trực, tư pháp thì còn được, nếu thật muốn hắn đi an dân thì không khéo còn chuốc thêm phiền phức.

- Hắn đi Tô Tùng vốn không phải để an dân.

Thẩm Mặc thản nhiên nói:

- Mà là phá cục. Thái Nhạc huynh, huynh có thể tìm ra người nào có thể khai thông cục diện Tô Tùng sao?

-...

Trương Cư Chính nghe vậy chẳng còn gì để nói. Vì để có thể phổ biến đo đạc ruộng đất, hắn đã viết thư cho lão sư, hy vọng Từ Giai có thể là người đi đầu, trả lại ruộng đất cho người đầu hiến, hắn cũng tin tưởng tiểu sư đệ Lâm Nhuận làm việc có chừng mực, sẽ không động chạm tới thể diện của lão sư, để có thể phổ biến đo đạc ruộng đất... Đương nhiên nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng chưa thử làm qua sao biết được thế nào?

Nhưng bây giờ xem ra Thẩm Mặc không định cho Từ lão sư sống dễ chịu. Trương Cư Chính chưa kịp tính toán với lão sư thì Thẩm Mặc đã thay hắn thực hiện rồi.

Nhìn mặt Cao Củng đang không ngừng che giấu sự sung sướng thì biết chắc rằng ông ta cũng đang muốn Hải Thụy đi làm việc này... Lấy tính cách có thù tất báo của ông ta mà nhịn tới bây giờ cũng đã là kỳ tích. Nhưng không phải ông ta thay đổi tính nết, chẳng qua là chưa tìm được cớ nào mà thôi.

Trương Cư Chính đã nghĩ tới trong tương lai, lão sư sẽ không dễ chịu... Hắn không định ngăn cản, bởi vì mọi người trong đây đều đã thống nhất ý kiến, bản thân hắn có nói cũng phí công, thứ hai chính là như Thẩm Mặc nói, dự định Hải Cương Phong quả thật là người tốt nhất để làm việc này.

Đương nhiên hắn sẽ không bao giờ thừa nhận, bản thân cũng muốn thông qua phương pháp này, để cho Cao Củng thấy trung tâm thế nòa.

- oOo-

Sau khi tan buổi họp, Cao Củng kéo Thẩm Mặc ra một chỗ rồi hỏi:

- Ngươi nhất quyết ra tiền tuyến?

Thẩm Mặc gật đầu:

- Vâng.

- Nếu như là vì chuyện bọn họ xin cho ngươi được phong...

Cao Củng trầm ngâm chốc lát rồi nói:

-... Ta sẽ thay ngươi giải thích với hoàng thượng.

Thẩm Mặc có chút cảm động nhìn Cao Củng:

- Không phải vậy, chỉ đơn giản là muốn tòng quân thôi.

- Cải cách vừa mới khởi đầu.

Cao Củng không muốn nói:

- Chúng ta có thể cùng lập nên sự nghiệp thì tốt.

- Đánh đuổi Thát Lỗ, khôi phục Hà Sóc cũng là một sự nghiệp vĩ đại.

Thẩm Mặc khẽ nói:

- Hơn nữa sau khi khai chiến sẽ trở thành lực lượng to lớn, giúp đỡ ông cải cách.

Nói rồi cười:

- Nhưng nếu như tiền tuyến đánh không tốt, thì áp lực có thể lớn lắm, sẽ có người nhân cơ hội mà loại bỏ cải cách của chúng ta.

- Cải cách của chúng ta...

Trên mặt Cao Củng nở nụ cười:

- Gọi như vậy không sai...

Chương 840: Sa trường điểm binh

Trung tuần tháng chín năm thứ ba Long Khánh, mỗi lộ đại quân tham gia duyệt binh đều tụ họp tại kinh thành, kinh quân, biên quân, nam quân, tổng cộng hơn hai mươi vạn nhân mã, chen chúc trong Phong Đài đại doanh, bên ngoài cũng dựng đầy quân trướng, cao thấp nhấp nhô kéo dài tới tận chân kinh thành. Bách tính trong thành đã nhiều năm chưa từng thấy tình cảnh hoành tráng vậy, mấy ngày nay cũng hưng phấn như năm mới về.

Nhưng trong các lớp lớp quân doanh lại là một bầu không khí khẩn trương, tất cả tổng đốc, tổng binh mỗi lộ đều ở trong doanh trại, vừa đốc thúc bộ hạ dựng cờ, tắm rửa chiến mã, lau giáp trụ, mài binh khí, vừa sát sao tiến hành huấn luyện, quyết tâm không làm hỏng buổi lễ. Ngoài việc nghiêm khắc với chuyện đó ra, các tổng đốc đại nhân đều trở nên dễ tính hơn rất nhiều, các bộ dưới trướng muốn mua thêm đồ gì thì chỉ cần nói miệng là được, lại tăng cải thiện đồ ăn, chỉ cầu đến lúc trước mặt hoàng đế thể hiện ra binh cường mã tráng.

Dân chúng thấy một ngày dài như một năm, còn quan binh lại thấy thời gian như nước chảy ngựa phi, chỉ chớp mắt đã tới ngày đại duyệt binh hai mươi mốt tháng chín!

Sáng sớm hôm nay, tất cả bách tính trong kinh thành, bất kể thường dân hay phú gia đại hộ, đều rủ bạn bè mang lương khô dìu dắt nhau đi, từ đường lớn trên Chương Nghi môn thẳng tới ngoài Quảng An môn. Hôm nay thực sự là nhiều người, vừa mới mở cửa thành mà trên đường ra Chương Nghi môn đã nườm nượp người đi lại, đơn giản bởi vì có ai lại không muốn xem đại quân duyệt binh? Ai không muốn xem xem hoàng đế trông thế nào?

Chưa tới giờ mão mà đồi núi xung quanh có thể chứa cả vạn người, đã đứng dày đặc bách tính từ sườn núi tới tận thao trường... Cũng may Binh bộ sớm đoán trước nên đã cắt cử quan binh bảo vệ, ngăn không cho bách tính làm ảnh hưởng tới buổi duyệt binh.

Đúng giờ mão, trong Phong Đài đại doanh vang lên ba tiếng đại pháo rung trời động đất, đoàn người lập tức yên lặng, chỉ thấy từng đội binh sĩ kinh doanh, tinh thần tỉnh táo cầm mâu chỉnh tề đi ra, tạo thành một vòng tròn trong thao trường. Chỉ thấy cứ cách hai mươi trượng lại có một thải lâu, mà hai bên thải lâu cứ cách ba bước lại có một tốp, năm bước lại có một trạm. Quan quân đứng dưới thải lâu khôi giáp uy vũ, tay đặt lên chuôi kiếm, đứng thẳng bất động, tất cả các quân sĩ cũng đều mặc áo có số, uy vũ trang nghiêm.

Lúc này từ Củng Thần Đài trong thành vang lên ba tiếng pháo, sau đó toàn bộ quan binh cấm quâ từ trong thành đi ra, giới nghiêm toàn bộ quan đạo trước Tử Cấm thành, đợi hoàng đế ngự giá tới.

- oOo-

Vương triều Đại Minh từ sau thời Chính Đức hoàng đế rất ít có sự kiện gì chấn động thế này. Chính Đức hoàng đế yêu thích duyệt binh nhưng lại bị quần thần phản đối, cho nên bị các văn thần cho là hồ đồ, ghi vào sử sách toàn lời chê bai.

Thế nhưng Long Khánh hoàng đế Chu Tái Hậu hiện nay không giống, hắn được quần thần ủng hộ nên mới tiến hành lần duyệt binh này, quan quân trông mong, toàn dân cũng ngóng đợi. Cho nên ngay cả người xưa nay tầm thường lười biếng như Long Khánh cũng không khỏi cảm thấy uy nghi thêm vài phần.

Buổi sáng hôm nay, Long Khánh không ngủ như mọi ngày mà dậy sớm, dùng mấy món điểm tâm đơn giản, sau đó liền mặc đồ tế lễ, tới trước Thái miếu tế bái liệt tổ liệt tông, rồi được cung nhân hầu hạ thay đồ, chuyển sang mặc một bộ giáp trụ long văn ánh vàng rực rỡ.

Nhìn trong gương Long Khánh không khỏi hoảng hốt, đây thật sự là bản thân hắn sao? Sao lại oai hùng đến thế? Hai vai hoàng kim giáp phiến, trên thân thì xếp từng phiến bạch kim như vảy cá, trên áo choàng rồng bay vờn ngọc, sau lưng còn đeo Thất Tinh kiếm tổ truyền, đầu đội bạch kim khôi, bên trên còn cắm thiên nga linh (lông đuôi ngỗng trời, kiểu như mũ Tôn Ngộ Không). Sau khi tự sướng một lúc, hắn cảm thấy trên đầu nặng trịch, hắn bèn bỏ xuống, định đưa cho thị vệ nhưng lại nghĩ cả đời có mấy lần được mặc quân trang, cho nên lại kẹp vào khuỷu tay.

Ra tới ngoài đã thấy công khanh văn võ sớm đợi ở đó, có lẽ là lâu lắm rồi không có sự kiện lớn thế này, nên vẻ mặt mỗi người đều rất kích động, Long Khánh nhìn mọi người, rồi vung tay lên trang nghiêm nói:

- Đi!

Cùng với tiếng này của hắn, tiếng chuông trên lầu vang lên, sau đó các chùa các miếu điều nhất tề hưởng ứng, xa gần đều đánh chuông. Long Khánh hoàng đế bước lên xe ngựa xong, công khanh bách quan không phân biệt văn võ, tất cả đều lên ngựa, theo sát hoàng đế ra khỏi thành.

Nghe thấy tiếng chuông ầm vang trong thành, bách tính ngoài thành liền biết hoàng đế sắp giá lâm, tất cả hướng về phía cửa thành trông ngóng. Không biết qua bao lâu, chỉ thấy đại quân nghi thức đi ra. Phía trước là năm trăm cấm quân cầm long kỳ dẫn đường, theo sau là hai trăm đại hán mặc giáp vàng cầm kim tỏa, ngọa qua, lập qua, tỏa phủ, đại đao, hồng đăng, hoàng đăng, tiếp nữa là hai trăm hoạn quan mặc mãng y, cầm cờ, phướn, quạt. Sau khi hơn nghìn người này đi qua mới lộ ra chiếc xe màu màu vàng cực lớn chở Long Khánh, dưới sự bảo vệ nghiêm mật của Cẩm Y Vệ chậm rãi xuất hiện trước mắt mọi người.

Long Khánh toàn thân mặc quân trang, tay phải nắm bảo kiếm, tay trái đặt trên tay vịn xe, hàng nghìn người trước sau vây quanh hắn, hộ vệ hắn; bách tính đông đảo chiêm bái hắn. Xe của hắn đi tới đâu, mọi người đều rạp xuống như rạ, ngũ thể đầu địa không dám nhìn lên. Cảnh tượng này quả thật không phải vinh quang tầm thường, lần đầu tiên trong đời hắn cảm nhận được... Năm đó lúc đại điển đăng cơ, vì đế tang mà tất cả giản lược, cho nên Long Khánh không có được cảm giác như hôm nay. Hắn phóng mắt nhìn ra, tinh kỳ phấp phới, giáo mác sáng choang, hắn cố gắng kiềm chế, hết sức giữ tâm tình kích động, ưỡn ngực mà nhìn về phía trước, chỉ thấy thao trường rộng lớn đã ở ngay trước mắt.

Đường vào bên phải thao trường đứng mấy vị Binh bộ thị lang, ba vị cửu biên tổng đốc, cùng các tham tướng đã đứng đợi sẵn, thấy xe đi tới gần tất cả đều quỳ xuống, đồng thanh hô to:

- Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Long Khánh vẫn yên lặng nhìn khung cảnh say đắm lòng người này, một lúc lâu sau mới nói:

- Bình thân...

Sau đó tiếng kèn sáo đồng loạt vang lên trên thao trường, trong tiếng quân nhạc, Long Khánh hoàng đế bước tới đài cao phía bắc.

Bách quan cũng nối bước theo sau mà tới hai bên đài, còn các quân quan đều thúc ngựa về doanh, chuẩn bị bắt đầu đại duyệt.

- oOo-

Sau đó là đợi, tới tận khi hoài biểu của Long Khánh chỉ đến giờ Thìn. Hai đại hán tướng quân mỗi người mang theo roi lớn dài hơn một trượng, tới trước đài cao rung tay lên, tức thì hai sợi roi thẳng tắp nằm trên mặt đất.

Sau khi quan viên Hồng lư tự ra lệnh một tiếng, hai đại hán tướng quân lập tức vung roi, trong không trung cuộn thành một vòng, rồi sau đó là một tiếng giòn vang, lập tức trấn áp các âm thanh ầm ĩ, khiến trên đài đều trở nên yên tĩnh.

Roi lại tiếp tục vung lên, một tiếng giòn vang, sau đó lại tiếp tục vung lên, lại một tiếng giòn vang.

Ba tiếng vang đã xong, nội phụ Cao Củng gắng sức mở cuống họng, tuyên bố duyệt binh bắt đầu!

Vì vậy quân nhạc liền nổi lên, không chỉ có dụng cụ cổ nhạc mà còn có dụng cụ Tây nhạc, ống sáo các loại, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ cung đình Sa Vật Lược, diễn tấu khúc [Sa trường điểm binh khúc] hào hùng.

Các lộ quân chỉnh tề bước đều tạo thành tiết tấu, lộ quân đầu tiên duyệt binh đã xuất hiện ở phía đông thao trường.

Đây là một phương trận do năm trăm giáp trụ kỵ binh tạo thành, tất cả ngựa đều một màu, yên ngựa dây cương đều từ gấm lụa làm nên, các tướng sĩ mặc toàn thân khôi giáp màu bạc sáng ngời, cầm trong tay họa kích, theo sau một người cầm "Long tương" đại kỳ tiến vào thao trường.

Khi đi qua kiểm duyệt đài, tất cả tướng sĩ trong phương trận đều giơ cao họa kích, hướng về hoàng đế cùng hô to: "Vạn tuế!", sau ba lần như thế đã làm cho bầu không khí náo nhiệt hẳn lên. Các quan văn võ ngồi đây đều không tự chủ được mà đứng dậy, Long Khánh hoàng đế trên đài cao không ngừng cảm thấy hưng phấn dâng cao... Tình cảnh trước mắt khiến cho vị hoàng đế luôn ở trong thâm cung phải nhiệt huyết sôi trào, hắn cuối cùng cũng hiểu vì sao bá phụ của mình lại say mê duyệt binh như vậy.

Đợi tới khi Đàm Luân phía sau nhắc nhở, Long Khánh mới nhớ tới mà rút kiếm chỉ về phía phương trận, sau đó lại là một tràng vạn tuế vang lên.

Phương trận thứ nhất đi qua, tiếp sau là một đội hắc giáp kỵ binh năm trăm người, người dẫn dường cầm cờ thêu "Tuyển phong giáp tự doanh", mặc dù đội kỵ binh này không được trang bị loá mắt như cấm quân phía trước, nhưng nhìn năm trăm con ngựa chỉnh tề cùng bước, thần thái sung mãn ngẩng cao đầu vẫn khiến cho người khác phải hoan hô... Đây là thành quả có được sau hai năm luyện binh của Thích Kế Quang.

Sau "Phong giáp tự doanh" là "Đại Đồng trấn tiêu binh doanh" với năm trăm khinh giáp kỵ binh, mặc dù đội ngũ này đã cố gắng bày ra cái tốt nhất của mình, nhưng so với hai đội phía trước thì vẫn thua kém. Nhưng khi bọn họ xuất hiện đã khiến toàn trường nhiệt liệt hoan hô, tất cả các công khanh đại thần thận trọng, nhân vật nổi tiếng triều dã đều cật lực vỗ tay, dường như họ cảm thấy nếu không như vậy thì không biểu thị được sự tán dương của họ.

(tiêu binh: binh lính làm mẫu khi duyệt binh)

Ngay cả quân nhạc cũng hơi bị biến đổi, tấu lên khúc anh hùng khải hoàn ca. Từ Phong đài tung ra hoa tươi, như thiên nữ tán hoa, rơi khắp trời rực rỡ, khoác lên cho đội ngũ này một tầng giáp hoa. Những bách tính không biết chuyện đều rối rít hỏi thăm, không biết đây là lộ quân nào mà được ưu đãi đến vậy?

- Vậy mà cũng không biết?

Người bên cạnh đầu tiên là nhìn với ánh mắt khinh bỉ, sau đó mới nói:

- Đây là Mã gia quân!

- Thì ra là thế...

Mọi người bừng hiểu ra, đây chính là anh hùng quân đã đánh cho Yêm Đáp chạy trốn chui lủi như chuột, cho nên không còn ai lấy làm lạ nữa. Vì vậy mọi người từ vẻ không chú ý, đã chuyển thành tâm trạng không thể kìm hãm, ầm trời hoan hô...

Sau khi Mã gia quân đi qua là "Kế trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Thích Kế Quang; "Xương Bình trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Thang Khắc Khoan; "Chân Bảo trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Dương Tứ Úy; sau đó là "Tuyên Phủ trấn tiêu binh doanh" thân binh của Triệu Hà; "Thái Nguyên trấn tiêu binh doanh" thân binh của Doãn Phụng; "Liêu Đông trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lư Thang; "Du Lâm trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lưu Hiển; "Ninh Hạ trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lý Tích; "Cam Túc trấntiêu binh doanh" thân binh của Khương Ứng Hùng; "Cố Nguyên trấn tiêu binh doanh" thân binh của Quách Hổ... Các lộ quân của mười một vị tổng binh của cửu biên Đại Minh đã lần lượt trình diện.

Áp trận phía sau chính là "Tuyển phong đinh tự doanh" và "Tuyển phong tân tự doanh", đều là kỵ binh từ cấm quân...

Tổng cộng tám nghìn kỵ binh đứng cuồn cuộn trước mặt người xem, mang theo khí thế hào hùng, dẹp tan lo sợ trong lòng bách tính Hoa Hạ, người người đều huyết mạch sôi sục, lớn tiếng hô vang:

- Khu trục Thát Lỗ, lấy lại giang sơn!

Mọi người còn chưa kịp ổn định tâm tình thì tiếng trống trận xung quanh thao trường đã đồng loạt vang lên, khắp nơi vang lên tiếng hô hùng hậu trầm thấp, lan tỏa trong lòng mọi người. Nhịp trống chuyển từ chậm sang nhanh, như đập cùng nhịp đập với trái tim bách tính vậy, làm chấn động tâm can, sôi trào nhiệt huyết, khiến bách tính hận mình không thể lập tức ra tiền tuyến...

- oOo-

Kỵ binh đi qua là tới chiến xa phương đội. Trong tiếng trống trận, song mã kéo thiên sương xa, trên mỗi xe chở hai Phật Lãng Cơ, hai bên kỵ binh cùng bộ binh hộ vệ, rầm rập bước tới. Đầu tiên là một trăm khinh chiến xa, tiếp theo lại một trăm thiên sương xa, rồi một trăm trùng chiến xa, cuối cùng là một trăm chiếc lưỡng phúc trùng xa.

Sau đội xe đi qua, đội pháo binh mang theo khí thế kinh người tiến tới, hai trăm hổ tôn pháo do mỗi con ngựa kéo; một trăm đại tướng quân pháo do hai con ngựa kéo cùng với năm mươi thần uy đại pháo do bốn con ngựa kéo. Nhìn miệng pháo của thần uy đại pháo có thể nhét vừa một trẻ em, người xem đều suy nghĩ một khi khẩu pháo này bắn ra, liệu có bắn tan một quả núi không?

Những người ngồi xem đều rơi vào yên lặng, còn khuôn mặt thâm trầm của Thẩm Mặc từ khi duyệt binh bắt đầu cũng đã giãn ra. Trương Cư Chính ngồi bên cạnh y thấp giọng chế nhạo:

- Đã vừa ý chưa?

- Còn chưa đủ?

Thẩm Mặc thản nhiên nói:

- Trò hay vẫn còn ở phía sau.

- Chuyết Ngôn huynh cũng sâu xa quá chứ.

Ánh mắt Trương Cư Chính chậm rãi nhìn sang phía đài đối diện. Ngoại trừ công khanh văn võ kinh thành còn có người đến từ Lữ Tống, Lưu Cầu, Bà La... thậm chí cả Bồ Đào Nha, Hà Lan cũng có đại biểu đến đây. Trừ những người nước ngoài, còn có hơn trăm thủ lĩnh các nơi như Vân Quý, Lưỡng Quảng, Hồ Quảng, Tứ Xuyên... đủ mọi sắc tộc, đủ mọi trang phục tề tựu ở đây.

- Cũng không còn cách nào khác...

Thẩm Mặc chậm rãi nói:

- Không làm bọn họ sợ hãi, làm sao khiến bọn họ từ bỏ ý niệm động binh?

- Chuyện này trả giá cũng không nhỏ.

Vẻ mặt Trương Cư Chính lạnh nhạt nói:

- Nếu như cứ theo kế hoạch của huynh, thì phải tốn đến cả trăm vạn lượng, chuyện này mà truyền ra, tin chắc rằng sẽ có không ít người gièm pha huynh làm hao tài tốn của.

- Đại pháo vang lên, hoàng kim vạn lượng mà.

Thẩm Mặc ngượng ngùng cười:

- Huynh coi như đang xài tiền của Tấn thương, cho lòng đỡ tiếc.

- Không cần.

Trương Cư Chính hơi ngẩng đầu nói:

- Nếu tiêu tiền chính đáng thì ta chẳng tiếc gì. Chỉ cần đạt được mục đích, dù thuế quan năm năm sau đều cho ngươi cũng có làm sao.

Thẩm Mặc quay đầu nhìn hắn, trong mắt hiện lên vẻ tán thưởng:

- Ta sẽ khống chế quy mô. Không để cho việc chưa kịp đánh người đã nghèo rớt mùng tơi xảy ra.

Nói rồi cười cười:

- Hơn nữa chúng ta chiến tranh thay cho tài chủ Sơn Tây, chẳng lẽ còn phải bỏ tiền?

Trương Cư Chính định nói gì nữa, nhưng đột nhiên nghe được tiếng ca, chất giọng đậm chất Cam Thiểm khiến hắn ngạc nhiên, bèn tập trung nghe quan binh hát:

"Tiên thủ Sơn Tây thập nhị châu, biệt phân loan tương đả nha đầu.

Hồi khán Tần tắc đê như mã, tiệm kiến Hoàng Hà trực bắc lưu."

Tiếng ca hào hùng hòa trong tiếng trống, làm tất cả mọi người trong thao trường trong nháy mắt đều yên tĩnh lại, ngừng thở mà nghe tiếng hát chấn động hồn phách:

"Thiên uy quyển địa quá Hoàng Hà, vạn lý khương nhân tẫn Hán ca.

Mạc yển hoành sơn đảo lưu thủy, tòng giáo tây khứ tác ân ba."

Bắt đầu từ bộ binh Cam Túc trấn đang đi qua kiểm duyệt đài, sau đó đến quan binh Cố Nguyên trấn, Du Lâm trấn, Ninh Hạ trấn cũng tiếp lời hát vang, cứ tiếp tục như thế cho tới lúc cả mấy vạn người trong thao trường đều đồng thanh cất tiếng, tạo nên rung động trong lòng từng người, khiến tất cả quên thở, quên nói mà tròn mắt tròn miệng, trong thoáng chốc thời gian như ngừng trôi, gió như ngừng thổi, chỉ thấy tiếng ca vang mãi khắp thao trường.

"Mã vĩ hồ cầm tùy Hán xa, khúc thanh do tự oán Thiền Vu.

Loan cung mạc xạ vân trung nhạn, quy nhạn như kim bất ký thư.

Kỳ đội hồn như cẩm tú đôi, ngân trang bối ngôi đả hồi loan hồi.

Tiên giáo tịnh tảo An Tây lộ, đãi hướng hà nguyên ẩm mã lai..."

Tiếng ca dừng lại một lúc lâu, mọi người mới bắt đầu tỉnh lại, chỉ thấy toàn bộ quan binh đều đã xếp thành hàng quay mặt về phía kiểm duyệt đài, trên thao trường tinh kỳ như rừng, người người đều đứng thẳng, lặng ngắt như tờ. Hơn mười vạn quan binh đều tăm tắp đứng dưới đài, cho dù không nói lời nào cũng đã khiến cho người ta áp lực nặng nề.

Long Khánh hoàng đế vui mừng tán thưởng quan binh tham gia duyệt binh, khen ngợi quân tâm sĩ khí, hy vọng bọn họ sẽ tiếp tục phô diễn sức mạnh cùng uy phong, cho tất cả mọi người thấy sức mạnh của vương triều Đại Minh.

Trong tiếng tung hô vạn tuế, Long Khánh hoàng đế bước xuống đài, rồi đi tới trướng đã chuẩn bị sẵn nghỉ ngơi. Các quý khách còn lại cũng được dẫn vào trong các quân doanh để nghỉ.

Sau một lúc nghỉ trưa, hoàng đế lại xuất hiện trên kiểm duyệt đài, lần này thì không phải ngồi không chịu trận như lúc sáng nữa, mà có thể uống rượu ngon, thoải mái ngồi dưới mái che để xem các lộ quân luận võ.

Buổi chiều đầu tiên luận võ chủ yếu là do mỗi binh chủng biểu diễn sở trường của mình, nào là bộ binh đột kích, bộ kỵ cùng đánh, còn diễn luyện tổ hợp xa trận, bắn kình nỗ, luyện trường thương. Tất cả tác phong chỉnh tề, bước đều như một, đao quang kiếm ảnh, sát khí tận trời, khiến cho những người xem đều kinh hồn động phách.

Nhưng khiến bọn họ kinh hoảng nhất, chính là khi thần cơ doanh biểu diễn lúc trời bắt đầu tối. Đầu tiên là một nghìn hai trăm binh sĩ cầm súng kíp đứng thành hàng, dài đến cả trăm trượng cùng bắn. Mà bia bọn họ bắn đâu phải là hình nộm đứng yên, mà là mấy trăm chiến mã Mông Cổ...

Nhìn người ngựa trên chiến trường, ai cũng hiểu đây là đang diễn luyện súng kíp trận đối kỵ binh. Hầu hết mọi người đều biết súng kíp trận từ trước đến nay đều đứng sau trường thương trận, nhưng bây giờ giữa hai bên lại không có chướng ngại gì, cự ly hai bên lại không tới hai trăm trượng, chiến mã chỉ cần chạy hai mươi nhịp là có thể áp sát, nếu trừ thời gian lên đạn nhắm bắn thì thời gian còn lại chỉ còn hơn mười nhịp để cho thần cơ doanh khai hỏa...

(thiếu phần 3 chương này)

Nhưng đối với hoàng đế cùng các quan khách mà nói, thì loại diễn tập không có máu me này không kích thích bằng lúc bắn súng. Dù có người muốn mượn cơ hội mà dò la hư thực của quân Minh cũng bị khéo léo từ chối, khuyên ở lại trong soái doanh chờ đợi diễn tập.

Đương nhiên Long Khánh hoàng đế cũng không nhàn rỗi, nhân cơ hội này mà tiếp kiến các đặc phái viên trong và ngoài nước. Lần duyệt binh này thanh thế rất lớn, không thể nghi ngờ đã thu được kết quả như ý muốn, tất cả các thổ ty, thủ lĩnh trước lúc diễn luyện đều kiệt ngạo bất tuân, nay đã trở nên dễ bảo... Ngay cả các đại biểu của Bồ Đào Nha và Hà Lan cũng quỳ xuống, quên cả lý do "nước ta không có phong tục này", làm cho hoàng đế tâm tình cực tốt.

Long Khánh hoàng đế cũng không nhân lúc người mềm yếu mà bắt nạt, mà thể hiện khí độ ung dung của hoàng đế Thiên triều. Một số thủ lĩnh nhận được sự đối xử của hoàng đế mà khóc lớn, biểu thị nguyện ý đời đời kiếp kiếp phụng dưỡng hoàng đế Đại Minh, tuyệt đối sẽ không có dị tâm. Với những thổ ty như vậy, Long Khánh cũng không tiếc ban thưởng, thăng quan tiến tước, cho ân sủng trọn đời.

Các đại diện của phiên quốc sau khi chứng kiến duyệt binh cũng bắt đầu lo sợ vì lễ vật của mình chuẩn bị quá ít, sợ hoàng đế bệ hạ không nhận. Nhưng Long Khánh rộng lượng nói:

- Lễ vật nghìn dặm, của ít lòng nhiều. Của cải trẫm nhiều như biển, chẳng lẽ lại vì các ngươi mà thiếu sao?

Hoàng đế rộng rãi lại khiến Trương Cư Chính kêu khổ, bởi mỗi lần như vậy lại mất cả vạn lượng bạc ban thưởng.

Có điều hắn cũng biết, trải qua sự thống trị vô lý của Chính Đức, Gia Tĩnh, sự khống chế của Đại Minh với các thổ ty phiên bang đã gần như không còn... Ô Tư Tàng của Tây Tạng, Đóa Cam lưỡng vệ chỉ tồn tại trên danh nghĩa, Tây Ninh Vệ ở Thanh Hải cùng tứ Vệ ở tái ngoại cơ bản đã bị Mông Cổ thay thế, thoát khỏi sự thống trị của triều đình. Không nói đâu xa, chỉ nói trong hai kinh mười ba tỉnh, hiện tại có Vi Ngân Báo ở Quảng Tây, Tằng Nhất Bản, Quách Minh ở Quảng Đông, Ngụy Thái Thanh, Hà Thuật ở Thiểm Tây, Vạn Dương Sơn ở Giang Tây, Phụng Kế Tổ ở Vân Nam cùng phản loạn, năm tỉnh mà có đến hơn mười nơi phản loạn. Nếu không phải mấy năm gần đây cố gắng tiêu diệt thì không biết đã loạn đến mức nào.

"Chỉ qua lần duyệt binh này có thể khiến họ bớt phản loạn, thì tiêu một chút cũng đáng giá." Trương Cư Chính trong bụng nghĩ thầm. Thật ra hắn đã rất hài lòng với kết quả của lần đại duyệt binh này, hắn tin rằng sau lần này, nhiều kẻ có dã tâm tạo phản sẽ phải tự lượng lại sức mình.

Suy đoán của Trương Cư Chính không sai, lần đại duyệt binh này đã thu được kết quả như ý. Quân uy của Minh triều cùng quốc sách hoà thuận hữu hảo đối với các phiên bang đã tạo thành tiếng vang lớn. Mấy năm sau có tới hai mươi bảy quốc gia, bốn mươi hai thổ ty đến Đại Minh triều cống, phản loạn trong nước cũng giảm đi rõ rệt... Điều này quả thật có ý nghĩa với cuộc chiến tranh với người Mông Cổ.

Còn một điều không ngờ tới, chính là trong các đại diện Âu Châu tới xem duyệt binh lại có một đại diện của Tây Ban Nha, người kia sau khi xem xong thì vô cùng chấn động, nhất là đối với trận đấu súng với chiến mã. Sau khi trở về liền viết một báo cáo, nói người Tây Ban Nha phải đánh giá lại sức mạnh quân sự của Đại Minh, đình chỉ hạm đội đang chuẩn bị xuất phát, sau đó phải chuẩn bị thật kỹ mới có thể khai chiến được.

Đương nhiên đây chỉ là những chuyện sau này.

- oOo-

Nếu như hỏi mỗi người đã xem duyệt binh, quân diễn lần này điều gì ấn tượng nhất, thì chắc chắn có hơn một nửa sẽ chọn trận đấu súng của thần cơ doanh với chiến mã kia, đến giờ bọn họ vẫn chưa hiểu vì sao lại có thể như thế được? Bọn họ cũng đã cố tìm hiểu sự thật, nhưng cho tới mãi tới khi rời đi cũng vẫn chưa tìm được câu trả lời... Thật ra cũng chẳng có gì bí mật, chỉ là bọn họ không hỏi đúng người mà thôi. Quan viên phụ trách tiếp đãi đều là người của Lễ bộ và Hồng lư tự, làm sao có thể biết cấu tạo của vũ khí Đại Minh, mà các quan viên cũng không thể đi hỏi giúp bọn họ, cho nên bọn họ đành ôm thắc mắc về nước, nhưng trong lòng vẫn mong sau này có thể biết vì sao.

Đối với đáp án của việc này, các tổng đốc, tổng binh của Đại Minh triều cũng muốn biết giống đại diện các nơi vậy, nhưng bọn họ không như đại diện các nơi, mà có thể quấn lấy Thẩm Mặc truy hỏi kỹ càng sự việc... Mấy ngày này, đề tài mà các tướng lĩnh nói tới nhiều nhất chính là về vấn đề đó: uy lực, xạ trình, cách thức khai hỏa. Với sự hiểu biết của bọn họ, sao lại không biết việc một loại vũ khí như thế có khả năng chuyển biến toàn bộ hình thức chiến tranh chứ.

Có người còn đoán không biết lúc đó có phải binh sĩ thần cơ doanh mỗi người đều cầm theo ba khẩu súng? Lời này nói ra liền bị mọi người cười nhạo, mọi người bảo hắn thử giấu hai khẩu súng trên người xem có giấu nổi không, đơn giản là không thể.

Lại có người nói liệu đay có phải là loại súng "Liên xạ" trong truyền thuyết? Lời này nói ra lại được mọi người tán thành. Các tướng lĩnh cao cấp đều biết vài chục năm trước, xảo tượng của Công bộ đã từng nghiên cứu chế tạo một loại súng thần kỳ có khả năng bắn liên tiếp. Nhưng có người nghe vậy thì cười nhạt, cho rằng cái gọi là súng "Liên xạ", dùng chơi thì còn có thể, chứ ra chiến trường không bắn được chết người. Bởi vì hắn là Thích Kế Quang cho nên mọi người không ai dám cười nhạo, chỉ có thể hỏi:

- Ngươi làm sao biết bắn không chết người?

Thích Kế Quang bình tĩnh đáp:

- Bởi vì ta đã từng là phó tướng của thần cơ doanh.

Mọi người nghe vậy không dám nói nhiều, nhưng vẫn mời hắn nói rõ nguyên nhân. Thích Kế Quang nói cho bọn họ biết, khi còn ở thần cơ doanh đã hắn đã từng có hứng thú với loại súng này, cũng tiến hành nghiên cứu cẩn thận, không chỉ chế tác phức tạp mà sai số khi bắn cũng rất cao, quan trọng là xạ trình lại quá thấp, cho nên mới nói chơi thì được còn trong thực chiến thì chỉ có duy nhất một tác dụng là làm ám khí.

- Ta xem súng bắn lúc diễn tập không chỉ khác về hình thức so với súng "Liên xạ", mà xạ trình của nó cũng xa hơn, hai loại súng này chắc chắn khác nhau.

Mọi người đều biết Thích Kế Quang là người cẩn thận, cho nên cũng không hỏi nhiều nữa, mà dành chuyện này đến khi kết thúc đại duyệt binh hỏi Thẩm lão một thể.

Thẩm Mặc bị cuốn lấy, bất đắc dĩ phải cho Binh Bộ Thị Lang Ngô Đoái trả lời.

Ngô Đoái sai người mang tới hai khẩu, một khẩu là điểu súng phổ biến trong quân, một khẩu chính là súng kíp mà thần cơ doanh dùng khi diễn luyện. Các tướng lĩnh cẩn thận xem xét hai khẩu súng, thấy khẩu sau so với khẩu trước nhỏ đi không ít, trang bị cũng khác một chút.

Ngô Đoái cẩn thận giải thích cho họ:

- Khẩu này là sản phẩm của tổng xưởng công binh trực thuộc Binh bộ, hoàng thượng đặt tên là "Long Khánh thức bộ thương", nguyên lý của nó không giống với điểu súng, mà xuất phát từ Âu Châu...

Thì ra mặc dù quân đội Âu Châu hiện nay vẫn sử dụng phổ biến súng có ngòi, nhưng từ đầu thế kỷ mười sáu, cũng là năm mươi năm trước, kỹ sư đồng hồ kiêm nhà chế tạo súng của Đức là Cơ Không Tư đã tạo ra một loại súng mới... Có người nói người này trong lúc nhìn đá lửa ma sát sinh ra tia lửa mà lóe lên ý nghĩ, sau đó hắn nghiên cứu để kết hợp giữa bánh răng thép của đồng hồ với đá lửa. Với kinh nghiệm và trí tuệ của hắn, vào năm 1515 tây lịch đã chế tạo thành công súng đá lửa có ổ đạn quay.

Việc Cơ Không Tư chế tạo thành công súng có ổ đạn quay được quân Đức quan tâm, sau đó quân Đức bắt đầu trang bị súng này cho bộ binh và kỵ binh. Hai mươi năm sau, trong một lần giao tranh với quân Pháp, lúc đó quân Pháp vẫn dùng loại súng có ngòi, còn quân Đức được trang bị loại súng mới. Trong lúc trận đánh diễn ra thì trời đột nhiên đổ mưa, súng của quân Pháp gần như không bắn nổi, còn súng của quân Đức thì càng bắn càng hăng, đánh cho quân Pháp chạy trối chết.

Nhưng loại binh khí này vẫn không thể mở rộng ra khỏi phạm vi nước Đức, bởi vì nó vẫn còn một số nhược điểm nghiêm trọng, cấu tạo vô cùng phức tạp, chế tạo khó khăn cho nên giá thành cao. Ngoại trừ trang bị cho các vương cung vệ đội, quý tộc bảo tiêu thì cũng không được dùng rộng rãi. Vì thế tuy đã xuất hiện nhiều năm nhưng cũng không ảnh hưởng tới địa vị của súng có ngòi.

Thế nhưng sự ưu việt của loại súng mới là rất rõ ràng, cho nên các nhà chế tạo luôn tìm cách cải tiến ổ quay của súng, đồng thời đơn giản hóa các chi tiết. Không lâu sau, người Tây Ban Nha khi đó rất hùng mạnh đã cải tiến được, họ thay bánh răng có nguồn gốc từ đồng hồ, đặt vào đó một khối đá lửa, phía sau có một cái cò. Đến khi xạ kích thì lẫy sẽ tác động tới cò súng, dưới tác dụng của lò xo sẽ đánh vào đá lửa, tạo thành tia lửa để bắn đạn. Loại cơ cấu này gọi là cơ cấu đánh lửa, còn súng thì gọi là "Súng đánh lửa".

Súng đánh lửa đã đơn giản quá trình xạ kích đi rất nhiều, tăng khả năng bắn nhanh và độ chính xác, sử dụng thuận tiện, hơn nữa chi phí thấp, dễ dàng sản xuất đại trà. Nhưng vật mới thay thế vật cũ cũng phải có một quá trình, trải qua vài chục năm với nhiều lần cải tiến, tin tức thu được cho thấy quân đội Tây Ban Nha đã bắt đầu đổi sang dùng loại súng này, nhưng cũng không phải là toàn bộ, ít ra thì tại các thuộc địa của người Tây Ban Nha vẫn chưa thấy qua súng này. Bằng không người đại diện kia của Tây Ban Nha cũng không giật mình đến vậy.

Đại Minh có thể đi trước các nước khác bắt chước sản xuất loại súng này, một nửa phải cảm ơn Thẩm Mặc có lòng, một nửa phải cảm ơn các "Thương nhân" đã trăm cay nghìn đắng trộm loại súng vẫn còn trong bí mật của Tây Ban Nha này về.

Nhưng để thần cơ doanh đại triển thần uy, còn phải dựa vào hai pháp bảo khác.

Chương 841: Tây bắc vọng

Từ khi súng xuất hiện vào thế kỷ mười lăm, thời đại vũ khí lạnh trải qua mấy nghìn năm đã đi tới hồi kết. Sau khi chứng kiến uy lực cùng sự ưu việt của loại vũ khí mới, rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, bao gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản, đều không ngừng cải tiến thiếu sót của nó, cũng trang bị cho quân đội rất nhiều. Đến giữa thế kỷ mười sáu, trong vài chục năm, quân đội Âu Châu đã sử dụng rộng rãi súng châm ngòi, gồm cả bộ binh và kỵ binh.

Lúc này quân đội Âu Châu chủ yếu là bộ binh bắn súng, trường mâu binh thì trở thành người yểm hộ chính cho bộ binh bắn súng. Kỵ sĩ khôi giáp hoa lệ thời Trung cổ cùng trường cung thủ của Anh đã qua đi. Thực dân Tây Ban Nha cùng Bồ Đào Nha ỷ vào súng kíp, đại pháo, dùng trăm nghìn người được trang bị đầy đủ có thể đánh chiếm được một quốc gia, đánh tan mấy vạn dân mông muội bản xứ. Đây là điều tất nhiên của lịch sử, là sự quá độ từ vũ khí lạnh lên vũ khí nóng.

Với hiểu biết hai kiếp người của Thẩm Mặc thì điều này chẳng có gì phải nghi ngờ. Nhưng điều y thấy vô cùng hoang mang, chính là vì sao vũ khí nóng đã được sử dụng ở hơn năm thành của Minh quân, nhưng lại thảm bại dưới trường mâu cung tiễn của kỵ binh Hậu Kim chứ?

Mãi đến khi nắm rõ trang bị của Đại Minh, đồng thời so sánh với với hỏa khí của phương tây, Thẩm Mặc mới dần hiểu rõ, quy luật bản thân nó không sai, mà chính là bản thân Đại Minh sai... Sự quá độ lên vũ khí nóng, không phải chỉ là sự tiến hóa của vũ khí trong chiến tranh, mà còn phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và công nghiệp. Không thể nghi ngờ, nếu không có hiểu biết về vật lý học, không có quy trình sản xuất chính xác đến từng milimet, thì không thể chế tạo được một khẩu súng tiêu chuẩn, đương nhiên cũng vì thế không thể đại triển thần uy của nó trên chiến trường.

Trận chiến của công ty Nam Dương tại Manila đã cho thấy rõ điều này. Lúc đó có đến mấy trăm binh sĩ đã qua huấn luyện của Đại Minh, dùng ưu thế nhân số áp đảo tuyệt đối mà đánh toàn quyền Tây Ban Nha. Không ngờ lại bị đối phương có hơn mười khẩu súng ngoan cường ngăn cản. Sau trận đánh, trong chiến báo truyền về có nói, tử thương của hai bên là một so với ba mươi, sự sát thương kinh khủng này của súng kíp thần cơ doanh của Đại Minh cũng không thể nào tạo được.

Ngoài nguyên nhân người Tây Ban Nha được huấn luyện bài bản, xạ thuật cao cường, thì còn có một nguyên nhân quan trọng, chính là bọn họ sử dụng loại súng có chất lượng hơn xa súng ống của Đại Minh.

Sau đó Thẩm Mặc đem súng ống thu được mang tới một nửa cho tổng xưởng công binh, để cho các công tượng mắt cao hơn đầu ở đây nghiên cứu. Một tháng sau, khi Thẩm Mặc quay lại tổng xưởng, đã thấy đầu bọn họ cúi thấp hơn trước, không thể nghi ngờ, so với các loại súng của Đại Minh sản xuất, thì những súng này không bị nổ trong khi châm ngòi, tránh cho binh sĩ khỏi nỗi sợ vỡ đầu khi châm lửa, hơn nữa nòng súng cũng không bị trước to sau nhỏ, bên trong nhẵn nhụi, viên đạn bắn ra ngoài đương nhiên tốc độ nhanh hơn nhiều, do đó xạ thủ sẽ tin cậy mà gia tăng luyện tập, đề cao xạ thuật.

Khi Thẩm Mặc nói đây chỉ là loại súng dùng cho thuộc địa của Tây Ban Nha, chứ chưa phải loại súng dùng cho cận vệ vương thất, thì các công tượng này cuối cùng cũng vứt bỏ kiêu ngạo của bản thân, bằng lòng thay đổi kỹ thuật sản xuất. Vì vậy Thẩm Mặc bỏ ra một số tiền lớn mời chuyên gia cùng kỹ sư từ Âu Châu về, để dạy lại từ đầu các nguyên lý, quy trình sản xuất cho các công tượng.

Tất cả các ý nghĩ đều phải dựa trên cơ sở khoa học, như binh khí cục trước kia vì muốn biểu diễn tư tưởng kỳ diệu của mình, đã sản xuất ra loại súng năm nòng, để trưng bày còn được, chứ mang ra chiến trường thì chỉ thuần túy là thứ coi mạng người như cỏ rác.

Lạc hậu liền bị ăn đòn! Nhưng còn đáng sợ hơn cả lạc hậu, chính là đã lạc hậu mà còn không thừa nhận! Thẩm Mặc yêu cầu tổng xưởng công binh phải vứt bỏ tất cả các ảo tưởng phi thực tế, chịu khó học tốt cái cơ bản từ các chuyên gia Âu Châu, ban đầu là bắt chước, sau đó thì sản xuất ra súng ống đạt chuẩn.

Cứ như thế sau một thời gian, công tượng cũng đã chế ra "Long Khánh thức bộ thương".

- oOo-

- Loại "Long Khánh thức bộ thương" này khi siết cò, sẽ tác động tới lò xo, làm cò phía sau tác động lên đá lửa, tạo thành tia lửa châm mồi cho đạn, bắn viên đạn ra.

Ngô Đoái cầm một khẩu súng trường, dẫn theo các vị tướng lĩnh ra bên ngoài, thành thạo biểu diễn nói:

- Dĩ nhiên súng này so với điểu súng tốt hơn rất nhiều. Ngoại trừ xạ trình thì ưu điểm quan trọng của nó, chính là bình quân cứ một trăm lần châm lửa, có thể đạt tám mươi lăm lần thành công.

Lời vừa nói xong dẫn đến một trận xuýt xoa, bởi vì nhược điểm của điểu súng, chính là khả năng thành công của mỗi lần châm lửa chỉ đạt được năm phần, mười lần có tới năm lần không cháy. Nếu như có thể tăng lên thành tám phần rưỡi, thì chẳng phải uy lực được tăng lên ba phần rưỡi hay sao?

Hơn nữa cho dù một lần không cháy, thì với loại "Long Khánh thức bộ thương" này mà nói, chỉ cần siết cò lại lần nữa thì có thể bắn tiếp lần hai, gần như không có thời gian trễ.

- Ngoài điều đó ra...

Ngô Đoái tiếp tục giới thiệu:

-... thì từ sáng kiến của đại nhân, đã chế tạo ra điểm ngắm (đầu ruồi) cho súng, so với việc bắn bằng cảm giác trước kia thì độ chính xác tăng lên nhiều... Đây là điều mà Âu Châu cũng không có.

Nghe xong giới thiệu của Ngô Đoái, các võ tướng trong lòng ngứa ngáy, hận không thể lập tức cầm súng để xem nó thần kỳ tới mức nào. Nhưng trước mặt lão đại Binh bộ, ai cũng không dám lỗ mãng, chỉ đành đứng một bên vò đầu bứt tai, ho khan liên tục.

Nhìn bộ dạng của bọn họ Thẩm Mặc không nhịn nổi cười, bèn nói:

- Cho bọn hắn xem thử đi.

Vì vậy ở ngoài trăm bước treo một vò rượu. Mà súng kia cũng đã ở trong tay Thích Kế Quang... Đã từng là người trong thần cơ doanh, nên nhiệm vụ thử súng đương nhiên là của hắn.

Thấy Thích Kế Quang nâng "Long Khánh thức" lên nhắm bắn, Thẩm Mặc không khỏi thầm toát mồ hôi. Năm đó tại Long Sơn Vệ, y đã nhìn thấy biểu hiện hơn người của Thích gia quân, chỉ bắn ba lần tên mà lui địch, nếu như nói ai có tư cách đánh giá ưu khuyết của súng và cung tiễn, thì chắc chắn phải là Thích Kế Quang.

Thích Kế Quang nín hơi ngưng thần, dựa theo sự chỉ dẫn của Ngô Đoái, vững vàng nhắm vào vò rượu, sau đó từ từ siết cò. Súng trong tay hắn như mọc rễ, không bị ảnh hưởng chút nào của lực phản chấn, vững vàng bắn đạn ra, tạch một tiếng đã bắn vỡ vò rượu nát bấy. Toàn bộ động tác được thực hiện trơn tru, hoàn chỉnh không giống với người lần đầu tiên sờ vào súng, khiến mọi người trầm trồ khen ngợi.

Thích Kế Quang rất hài lòng, yêu thích không muốn buông khẩu súng ra, hỏi Ngô Đoái:

- Có thể bắn xa hơn được nữa không?

Ngô Đoái lắc đầu:

- Loại súng này chỉ bắn trong vòng một trăm bộ, xa hơn nữa không đảm bảo sẽ trũng mục tiêu.

Một trăm bộ chính là 150m.

Trên thực tế, một cung tiến thủ muốn huấn luyện đạt chuẩn phải từ hai đến ba năm, nhưng đối với súng kíp thủ thì chỉ cần trên dưới hai mươi ngày là có thể cơ bản xong, đây cũng là nguyên nhân vì sao các đời vũ khí sau lại được chọn dùng. Biên quân những năm cuối thời Gia Tĩnh đã bắt đầu sử dụng điểu súng, hiệu quả cũng nhanh chóng thấy rõ, mặc dù vẫn không thể ngăn cản người Mông Cổ xâm lấn, nhưng mỗi lần đều có thể khiến cho họ thương vong nặng nề... Thử nghĩ một chút, nếu như các binh sĩ Đại Minh, ai ai cũng thiện xạ, thì còn lo gì chiến tranh?

Thích Kế Quang nhíu mày nói:

- Hôm đó ta thấy, xạ trình của thần cơ doanh còn hơn một trăm bộ.

- À, đó là một loại súng đặc chế.

Ngô Đoái nói rồi vẫy tay, liền có binh sĩ chạy tới dâng lên một khẩu súng có hình dáng gần giống với "Long Khánh thức".

- Nhìn xem khác nhau ở đâu.

Thẩm Mặc mỉm cười.

Thích Kế Quang mỗi tay cầm một khẩu ngắm nghía, những người còn lại cũng tiến vào tìm hiểu, nhưng xem một hồi lâu vẫn chẳng nhìn ra điều gì, thấy vẫn là một khuôn đúc ra mà thôi.

- Nhìn nòng súng...

Thẩm Mặc cười nhắc nhở:

- Bí mật ngay trong nòng súng.

Thích Kế Quang theo lời Thẩm Mặc nheo mắt lại, dùng mắt kia nhìn nòng của khẩu súng thứ hai, cuối cùng cũng phát hiện ra manh mối... Chỉ thấy bên trong nòng súng đáng ra phải nhẵn nhụi, thì lại thay bằng các rãnh xoắn. Hắn không nhịn được ngẩng đầu hỏi:

- Chẳng lẽ là do các vòng xoắn này?

- Phải.

Thẩm Mặc gật đầu:

- Cái này gọi là thang tuyến, đừng coi thường nó, nó có thể làm cho đạn bắn ra chuẩn xác hơn.

(thang tuyến: đường xoắn nòng súng)

Sau khi tiếp quản Binh bộ, Thẩm Mặc âm thầm sai người điều tra trang bị hiện nay của quân đội, xem có thiếu hụt chỗ nào không. Trong đó có vấn đề về súng kíp, ngoài việc quan binh kêu thiếu thốn thì còn một vấn đề về xạ trình, bởi vì viên đạn hình tròn, nòng súng lại không đạt chuẩn, thường thường rõ ràng nhắm vào hươu nai dưới đất, nhưng khi bắn có khi lại trúng cả chim trên trời.

Thẩm Mặc đem vấn đề này cho các công tượng của tổng xưởng công binh và các chuyên gia Âu Châu nghiên cứu... Y cũng đã tự mình suy nghĩ, mặc dù y chỉ là người ngoài nhưng dù sao với kiến thức hơn năm trăm năm của mình, y có thể dựa vào kinh nghiệm mà có được một chút linh cảm. Y nghĩ tới hai phương pháp, một là tăng rãnh trong nòng súng, hai là trang bị thiết bị ngắm bắn (đầu ruồi).

Sau khi được cải tiến theo hai phương pháp trên, độ chuẩn xác của súng đã tăng lên rất nhiều, có thể bắn xa tới hơn 200m. Nhưng vì thời đại này phải khắc rãnh thủ công, cho nên chi phí rất cao, chi phí để làm một khẩu có rãnh phải làm được hai khẩu không có rãnh. Có điều vấn đề chủ yếu vẫn là ở lúc sử dụng súng, viên đạn phải kết hợp chặt chẽ với đường rãnh trong nòng súng, không giống như súng không nòng xoắn, đường kính viên đạn chỉ cần nhỏ hơn so với nòng súng là được, cho nên trang bị đạn cho súng có rãnh vừa khó vừa tốn. Cũng chính vì thế mà hầu hết súng dùng trong quân đội vẫn là súng nòng trơn. Hơn nữa qua thời gian, các binh sĩ đã nghĩ ra phương pháp tăng cường hiệu quả, ví như trước khi nhét đạn vào thì dùng vải thấm dầu bôi qua, cũng không khó hơn súng có rãnh bao nhiêu.

Như súng săn của Thẩm Mặc, nòng súng rất ngắn, công dụng chính là để săn bắn vui chơi. Có người nói mấy năm gần đây loại súng này đã thịnh hành ở Âu Châu, các quý tộc thường xuyên tổ chức các cuộc thi bắn súng để giải trí. Đương nhiên loại súng có xạ trình xa, uy lực lớn này không chỉ là đồ chơi của quý tộc, lúc đó thu nhập các chư hầu của Đức chủ yếu là từ lính đánh thuê, lính đánh thuê của bọn họ có ở khắp Âu Châu, trang bị chính là loại súng này.

Loại vũ khí uy lực thế này đời nào Thẩm Mặc bỏ qua, y liền mang cho tổng xưởng công binh nghiên cứu kỹ thuật tạo rãnh nòng súng. Với sự hiểu biết của thời đại này, chỉ cần các tổng giám, công tượng cố gắng, thì tạo rãnh nòng súng cũng không khó khăn gì. Chỉ trong mấy ngày đã nghiên cứu xong máy tạo rãnh nòng súng thủ công, từ đó tạo ra "Long khánh thức bộ thương" đúng chuẩn.

- oOo-

Để cải tiến độ chuẩn cũng như tầm xa của súng, Thẩm Mặc còn kiến nghị thay viên đạn từ hình cầu sang một đầu nhọn, một đầu dài, việc này cũng không phải sử dụng kĩ thuật khó khăn gì.

Trong phòng thử nghiệm của tổng xưởng công binh, viên đạn dài cho thấy sự ưu việt hơn hẳn viên đạn hình cầu. Thứ nhất, tuy có cùng trọng lượng nhưng đường kính của viên đạn dài nhỏ hơn viên đạn cầu, hơn nữa đầu nhọn của nó có thể giảm sức cản của không khí khi bắn ra. Vì thế đường kính của súng cũng được thu nhỏ lại, trọng lượng giảm đi, tăng thêm sự chắc chắn cho súng rất nhiều. Thứ hai, diện tích tiếp xúc với rãnh nòng súng của viên đạn dài lớn hơn đạn cầu, nương theo rãnh nòng súng tốt hơn, vì thế có thể giảm bớt độ sâu của rãnh nòng súng, từ đó giảm bớt chi phí sản xuất.

Hiện nay các công tượng chế tạo đạn đều dùng thiếc hoặc chì làm đầu đạn, nhưng vì tính mềm dẻo của chúng nên khi bắn sẽ gây tắc trong nòng súng. Đáng lẽ loại chất liệu này không còn được dùng nữa, nhưng có người lại nghĩ liệu có thể thu nhỏ đường kính viên đạn hơn nữa được không, không ngờ thực nghiệm sau đó cho kết quả rất tốt. Trải qua tìm tòi, đã làm ra loại đạn có đáy lõm, như vậy khi bắn đầu đạn có thể giãn nở, khiến đầu đạn kề sát rãnh nòng súng, dưới sự đè nén của rãnh nòng súng đầu đạn sẽ xoay tròn bắn ra, khi trúng mục tiêu sẽ tăng diện tích công phá, tạo thành tổn thương lớn, nhất là đối với các loại động vật có thân hình lớn lại càng có tác dụng.

Nhưng vì loại đầu đạn này chỉ có thể chế tạo bằng kim loại mềm, mà bây giờ chỉ có chì và thiếc là thích hợp. Trong đó thiếc có điểm nóng chảy thấp, mềm, hiệu quả tốt, nhưng các công tượng lo lắng binh sĩ sẽ chiếm lấy kim loại quý này, cho nên quyết định dùng chì để chế tạo... Hơn nữa vì đầu đạn này rất dễ bị biến dạng, cho nên công binh xưởng không sản xuất, mà cung cấp khuôn đúc cho các binh sĩ tự đúc lấy đạn trước mỗi trận chiến.

Ở thời đại này, chưa có nước nào dùng hỏa khí sánh được với Đại Minh.

- oOo-

- Ngươi vừa mới bắn chính là đạn đã cải tiến.

Thẩm Mặc nói với Thích Kế Quang:

- Nếu là đạn cũ thì xạ trình chỉ có tám mươi bộ.

Nói rồi ngón tay chỉ vào Long Khánh thức nói:

- Ngươi có thể thử cho biết.

Thích Kế Quang theo lời, lui ra hơn 150 bộ rồi ngắm bắn, trúng. Sau đó lại lùi đến 180 bộ ngắm bắn, vẫn trúng... Hắn định lùi nữa nhưng sân chỉ rộng có vậy, Ngô Đoái tự tin nói rằng súng này trong vòng 200 bộ bắn trúng mục tiêu là chuyện thường.

Sau khi thử súng, mọi người quay lại phòng nghị sự, các vị tướng lĩnh vẫn còn đang bị chấn động chưa kịp tỉnh... Loại súng này trước nay chưa từng có, bộ binh có thể bắn ra mưa đạn, cho dù đối mặt với kỵ binh xung phong cũng không còn chịu cảnh chờ chết nữa.

Cuối cùng, có người không nhịn được hỏi Ngô Đoái:

- Ngô đại nhân, chúng ta lúc nào thì được trang bị Long Khánh thức?

Ngô Đoái lắc đầu:

- Còn chưa có kế hoạch.

- Cứ cho một khoảng thời gian cũng được mà.

Mọi người nhao nhao nói:

- Dù sao cũng cho một chút hi vọng chứ.

Ngô Đoái nhìn Thẩm Mặc, vấn đề này không phải là vấn đề hắn có thể trả lời.

Thẩm Mặc đặt chén trà trong tay xuống, cười nói:

- Chư vị, ai nói với các vị sẽ được trang bị loại súng này?

- Trên thao trường đã biểu diễn, chẳng lẽ lại không trang bị cho các quân?

Mã Phương ỷ mình thế lớn, hắc hắc cười nói.

- Đó chỉ là để dọa thôi, hiểu không?

Thẩm Mặc như cười như không nói:

- Trên thao trường chỉ để cho các thổ ty thủ lĩnh xem, các ngươi nhờ bọn họ mới được thấy mà thôi.

- Mạt tướng không hiểu.

Mã Phương mở to mắt nói:

- Súng tốt như vậy sao lại không trang bị cho quân?

Nói rồi lắc đầu:

- Thấy Long Khánh thức rồi, ai còn muốn dùng điểu súng rách nát này nữa.

- Xin lỗi.

Thẩm Mặc nhẹ lắc đầu:

- Phần lớn quân đội vẫn phải dùng điểu súng tác chiến.

- Vì sao?

Mã Phương nóng nảy.

- Sao lại nói với đai nhân như vậy?

Đàm Luân vội vàng quở trách.

Thẩm Mặc xua tay ý nói không có gì, thản nhiên nói với Mã Phương:

- Ngươi chỉ biết súng này tốt, nhưng không biết tốn bao nhiêu tiền mới làm được nó...

- Đúng thế...

Ngô Đoái vội vàng nói tiếp:

- Đừng chỉ nhìn súng này đơn giản vậy, muốn làm ra thật không phải là chuyện dễ. Cái khác không nói, chỉ nói riêng nòng súng này...

Nói rồi nhìn sang Thích Kế Quang:

- Nguyên Kính huynh đối với điểu súng rất có hiểu biết, huynh nói xem nòng súng trước kia của chúng ta có vấn đề gì?

- Vấn đề không nhỏ.

Thích Kế Quang khẽ than một tiếng:

- Dễ bị rỉ sét không nói, hơn nữa nòng súng cũng không thẳng, chỉ có thể bắn phát nào biết phát đó.

- Đúng thế, điểu súng của Đại Minh ta sở dĩ không cách nào so với súng của Tây Dương chính là vì chất lượng sắt đúc nòng súng.

Ngô Đoái thở dài một tiếng.

- Vấn đề này, năm đó khi đánh Oa, mạt tướng đã nhận ra.

Thích Kế Quang gật đầu nói:

- Binh khí của chúng ta luôn bị đao của Oa nhân chém đứt, đường đường kỹ thuật luyệt sắt của Đại Minh Thiên triều không ngờ không so được với một Oa nhỏ bé, thật sự thấy xấu hổ đến chết.

- Không phải là kỹ thuật không bằng người.

Ngô Đoái lắc đầu:

- Hai năm nay chúng ta đi khảo sát Âu Châu, thì thấy kỹ thuật luyện sắt và rèn sắt của mười mấy quốc gia đều lạc hậu so với Đại Minh ta hơn trăm năm.

Nói rồi cười khổ:

- Kể cả Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cũng vậy.

- Vậy vì sao súng kíp của chúng ta lại lạc hậu?

Thích Kế Quang không hiểu hỏi.

- Có hai nguyên nhân quan trọng.

Ngô Đoái giơ hai ngón tay lên nói:

- Thứ nhất, nước ta thiếu quặng sắt chất lượng tốt. Binh bộ phái người đi khảo sát mười lăm khu rèn đúc lớn, thì thấy bọn họ sử dụng chỉ là quặng sắt có hàm lượng tạp chất cao...

- Chính xác là photpho và lưu huỳnh.

Thẩm Mặc thản nhiên nói, y nói với kỹ thuật thăm dò khảo sát của thời đại này thì Trung Quốc vẫn không tìm được quặng sắt có chất lượng cao, vẫn phải nhập loại quặng chất lượng thấp từ bên ngoài vào.

- Một nguyên nhân khác chính là vấn đề về nhiên liệu luyện sắt. Nhật Bản cũng tốt, Âu Châu cũng được, phàm là những nơi có thể rèn ra sắt tốt, đều dùng than củi để luyện. Thật ra Hoa Hạ chúng ta từ xưa đến nay cũng dùng than củi, mặc dù tới thời Tống Minh chuyển sang dùng than, nhưng thực chất không phải là kỹ thuật tiến bộ, mà bởi vì rừng phương bắc ngày càng cạn kiệt, không thể cung cấp than củi được nữa, chỉ có thể dùng than đá để luyện.

Ngô Đoái khẽ than một tiếng.

- Than đá của chúng ta cũng giống quặng sắt, đều có hàm lượng lưu huỳnh và photpho cao.

Thẩm Mặc nói tiếp:

- Vì sự ảnh hưởng của than đá, cho nên chất lượng của sắt luyện ra rất xấu. Đến khi mang vào sử dụng, sắt có nhiều lưu huỳnh dễ bị nứt vỡ, nhiều photpho thì giòn, dùng làm đao kiếm dễ gãy, làm thang dễ sập. Việc này có ảnh hưởng lớn tới việc chế tạo súng, bởi vì không thể để súng dễ vỡ hỏng như vậy, cho nên chỉ còn cách làm cho súng dày và nặng để bù lại.

- Hiện giờ có ba cách giải quyết.

Ngô Đoái nói:

- Một là dùng đồng thay thế, nhưng chi phí cao, hơn nữa Đại Minh cũng thiếu đồng, nên không khả thi; cách hai là không tiếc chi phí rèn lại nhiều lần, muốn đạt được tiêu chuẩn nòng súng như Âu Châu, Đại Minh chúng là rèn mười cân gang lấy một cân sắt, lại dùng năm cân sắt rèn ra một điểu súng, nhưng cách này chi phí không nhỏ, hơn nữa lại tốn thời gian.

- Còn cách thứ ba?

Doãn Phụng hỏi.

- Chính là nhập quặng sắt từ nước ngoài về, sau đó dùng than củi trong nước luyện sắt.

Ngô Đoái nói:

- Hiện nay sắt để đúc Long Khánh thức đều là dùng cách này, từ Vu Hồ tinh luyện xong sẽ vận chuyển tới kinh thành, do đó chi phí rất cao, nhưng hiện nay đây cũng là cách duy nhất.

Rồi ước lượng một con số:

- Hiện nay chi phí để chế tạo một khẩu Long Khánh thức là năm mươi bốn lượng bạc, sau này có giảm cũng vẫn là năm mươi lượng, trong đó nòng súng chiếm đến bảy phần chi phí.

- Vậy chẳng phải là đúc bạc mà thành sao?

Chúng tướng líu lưỡi.

- Cho nên nếu không thể giải quyết được vấn đề nguyên liệu...

Ngô Đoái nói:

-... thì mỗi năm chỉ làm được một vạn khẩu Long Khánh thức mà thôi... Không phải là Binh bộ không muốn làm nhiều, cũng không phải là thiếu quặng sắt, mà là triều đình không có tiền.

Ở bất cứ quốc gia nào, quặng sắt đều là mặt hàng cấm buôn bán, vận chuyến, nhất là quặng sắt có hàm lượng cao luôn bị các quốc gia độc chiếm cho riêng mình. Mặc dù trên đời này không có chuyện gì mà tiền không làm được, nhưng vì vậy mà chi phí cũng bị đẩy lên rất cao. Cho nên để giải quyết vấn đề nguyên liệu, trừ phi triều đình tăng thu nhập, bằng không không thể nào tăng sản lượng được.

Thực tế với một vạn khẩu thì có thể trang bị được cho bao nhiêu bính sĩ? Nếu như bình thường, mỗi người một khẩu không thành vấn đề, nhưng trong chiến tranh mà nói, thì dù số lần giao tranh ít, cộng với hậu phương tiếp tế không ngừng, cũng chỉ có thể trang bị cho tối đa năm, sáu nghìn người, điều này đối với hơn mười vạn nhân mã cửu biên hiện nay thì chẳng thấm vào đâu...

Cho nên đối với một vạn khẩu súng này, các tổng binh đều nóng lòng muốn có, cho dù không thể độc chiếm cũng muốn được chia một chén canh, ngay cả các tổng đốc vốn tự giữ thân phận cũng đứng ngồi không yên.

Thẩm Mặc ngồi trên thấy các tướng lĩnh tranh giành nhau tới mức mặt đỏ gay thì trong lòng sinh tức giận... Đều là đại tướng từng dẫn mấy vạn nhân mã, sao lại có cái nhìn thiển cận như vậy. Thực ra cho dù súng có tốt, cũng không thể xảy ra tranh giành đến mức này, mà nguyên nhân sâu xa chính là mâu thuẫn nội bộ trong quân... Trước kia, mặc dù võ tướng mỗi trấn không hợp tính, nhưng cũng vẫn hòa thuận với nhau, việc tranh chấp tài nguyên đều do tổng đốc đứng ra. Sau khi tổng đốc lấy được, mỗi trấn sẽ tự định đoạt với nhau, tốt xấu gì cũng là một quy củ.

Nhưng bây giờ chẳng còn quy củ nào, tất cả trở nên hỗn loạn, nguyên do cũng chính là mâu thuẫn giữa biên quân, kinh quân cùng nam quân. Đại ý là, biên quân không ưa kinh quân cùng nam quân, vì bọn họ đều có đãi ngộ và tiếp tế tốt hơn; nam quân coi thường biên quân cùng kinh quân, bởi vì bọn họ thường bại trận, phải dựa vào sự hỗ trợ của nam quân để ổn định thế cục; kinh quân đối với biên quân và nam quân thì luôn có tư tưởng tự cao về thân phận. Ba quân đều nghĩ mình là nhất, đương nhiên chuyện gì cũng muốn lợi cho mình.

Tác hại của mâu thuẫn nội bộ, quả thực là đáng sợ.

Thẩm Mặc không thể giải quyết mâu thuẫn, nhưng y có tuyệt kỹ làm gác lại mâu thuẫn, vì thế y trầm mặt xuống.

Mặc dù chúng tướng đang tranh cãi ầm ĩ, nhưng thật ra luôn luôn để ý tới Thẩm Mặc, thấy y lạnh lùng không nói gì thì tất cả liền im re.

- Sao không ầm ĩ nữa?

Thẩm Mặc nhếch miệng hỏi.

Mọi người không ai dám nói gì, dù thở mạnh một chút cũng không dám.

- Đều là tổng binh, đô đốc, vì mấy khẩu súng mà cãi nhau thành thế này sao?

Thẩm Mặc lạnh nhạt nói:

- Chỗ này là cái chợ à?

- Mọi người cũng chỉ vì muốn đánh cho Thát...

Mã Phương bạo gan đánh liều nói.

- Lẽ nào Mã vương gia ngươi có thể thắng Yêm Đáp liên tiếp, đều là nhờ vào Long Khánh thức?

Thẩm Mặc trừng mắt nhìn hắn, rồi nhìn sang chúng tướng:

- Các ngươi không có Long Khánh thức thì không bảo vệ khu vực của mình được sao?

- Đương nhiên không phải thế...

Mọi người lắc đầu nói.

- Vậy ngoan ngoãn ngồi xuống đi.

Thẩm Mặc đứng lên nói:

- Sự vụ cửu biên nhiều như núi, lần này cho gọi các vị trở về chắc các vị cũng đoán được, không đơn giản chỉ vì quân diễn chứ?

- Vâng.

Chúng tướng đều đứng dậy, theo sau Thẩm Mặc vào phòng họp bí mật bên trong.

- oOo-

Ngoài phòng có Cẩm Y Vệ nghiêm ngặt đứng gác, các vị tổng đốc, tổng binh chỉ có thể tiến vào một mình, không được mang theo bất cứ một tùy tùng hộ vệ nào. Các cửa sổ bên trong đều dùng rèm lục sắc dày che lại, một tia sáng cũng không lọt. Nhưng trong phòng có hơn mười ngọn đèn ngọc lưu ly không khói, chiếu sáng như ban ngày.

Đợi chúng tướng an vị, Thẩm Mặc sai người sai người kéo tấm màn che trên tường phía bắc xuống, lộ ra một bản địa đồ biên phòng của cửu biên. Thấy địa đồ này, tất cả mọi người đều biết khoảnh khắc mong chờ cuối cùng đã đến.

- Chắc chắn chư vị không xa lạ gì với bản địa đồ này, đây là "Đại Minh cửu biên biên phòng đồ".

Giọng nói Thẩm Mặc vang lên:

- Từ ngày lập quốc, Thái tổ hoàng đế đánh đuổi Thát Lỗ, khôi phục Trung Hoa, đem tàn dư quân Nguyên đuổi về Mạc Bắc, nhưng Nguyên Thuận đế khi rút về phương bắc vẫn dẫn theo nhiều tướng lĩnh, dân chúng không dưới trăm vạn. Vì để củng cố vương quyền mới lập, tiêu trừ thế lực tàn dư của Nguyên quân, mà Thái tổ mấy lần dụng binh lên đại mạc, tuy nhiên cũng không được như ý, đành phải thay đổi sách lược lấy phòng ngự là chính. Thái tổ thiết lập bắc bộ biên phòng tuyến, phía đông từ Liêu Đông Áp Lục Giang, tới tận Cam Túc Tửu Tuyền phía tây, đóng quân trải dài mấy nghìn dặm, trước sau thiết lập chín trọng trấn Liêu Đông, Nghi Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Sơn Tây và Cố Nguyên, gọi là "cửu biên". Cũng thiết lập phía bắc trường thành ba đội quân tiền tiêu Đại Ninh, Khai Bình, Đông Thắng Vệ để ngăn ngừa Mông Cổ nam tiến, hình thành nên thế cục quân sự liền lạc.

- Sau đó nhị tổ dựa vào cửu biên đã vài lần bắc phạt, khiến biên cảnh Đại Minh được hưởng vài chục năm an bình. Nhưng sau biến Thổ Mộc Bảo, Đại Minh ta tổn thất nặng nề, từ đó vai trò công thủ với người Mông Cổ cũng đổi chỗ, hàng năm đều phải chịu công kích của chúng. Hơn nữa từ thời Thiên Thuận tới nay tình hình càng trở nên nghiêm trọng, cửu biên hàng năm vẫn phải chống đỡ sự xâm lấn hàng trăm lần, Thát Lỗ liên tiếp đi sâu vào đất Đại Minh, giết người đốt nhà, thậm chí còn đánh tới sát kinh sư, làm mặt rồng sợ hãi.

Thẩm Mặc nhìn mọi người đang ngồi nói:

- Thân là tướng soái biên trấn, chư vị ắt hẳn rõ ràng việc này, không biết có suy nghĩ thế nào?

Chúng tướng đều cúi đầu, thầm nghĩ sao ngài lại vạch áo cho người xem lưng.

- Sau này khi ta nhậm chức, đã hỗ trợ Binh bộ điều tra tình hình phòng bị của cửu biên.

Thẩm Mặc lạnh lùng nhìn chúng tướng, mặt không lưu tình nói:

- Kết quả thu được khiến người ta khó lòng mà tiếp nhận. Ở mỗi thành trấn tuần sát, trang bị mùa đông chuẩn bị cho mỗi nhánh nhân mã định mức tuy nhiều, nhưng cứ năm mươi bộ lại thiếu tới ba, bốn mươi bộ; quân đội thiếu y phục, quân khí hỏng hóc, ngựa già xấu, gian khổ vô cùng. Với tình hình như vậy quân đội không làm phản đã là may, nói gì tới việc phòng thủ?

Y đảo mắt qua mọi người nói:

- Về phần các thành sát biên, lương thực, đồ dùng đều không nhiều, hơn nữa còn không có dự trữ. Về phần khí giới hỏng hóc, không dùng được rất nhiều. Thậm chí có sĩ tốt của Vệ sở dùng gậy gỗ đi tuần tra! Ta muốn hỏi các vị một chút, việc này rốt cục là do đâu? Do triều đình không chuẩn bị tốt, Binh bộ cắt xén lương bổng, hay là do tầng tầng tướng lĩnh mỗi trấn ăn bớt? Còn quân điền, ruộng đất cũng đi đâu mất, sao trong sổ sách các trấn đều không ghi? Rút cục là đất có chân chạy mất sao?

Chúng tướng nghe y nói mà mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, thầm nghĩ chẳng lẽ lần về không phải là để động viên, mà là trách tội? Lúc này cũng không thể im lặng được nữa, mọi người quay sang nhìn nhau, cuối cùng tất cả đều nhìn về phía Đàm Luân, năn nỉ vị Binh Bộ Thị Lang, Tuyên Đại tổng đốc này có thể thay mặt mọi người nói vài câu.

- Phòng chính đại nhân bớt giận...

Đàm Luân đành liều mình nói:

- Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, chúng tôi mặc dù là tổng đốc, tổng binh nhưng cũng không dám làm quá. Chúng tôi không phải không biết vấn đề ở đâu, nhưng nếu phải xuống tay với thuộc hạ, sợ rằng sẽ loạn mất.

Khẽ than một tiếng lại nói tiếp:

- Nếu cứ truy tới cùng, triều đình sẽ phải điều chuyển các tướng lĩnh cao cấp, nhưng từ tham tướng trở xuống, thường là sống suốt đời ở quê nhà, những người này trải qua đời đời kiếp kiếp, đã kết hôn sinh nở, con cháu lại tiếp tục như vậy, tới nay đã gần được mười đời, coi như đã trở thành người bản địa.

Dừng lại một chút lại tiếp:

- Vừa rồi phòng chính đại nhân hỏi ruộng đất đi dâu, chính là cho gia tộc các tham tướng này, không tin ngài có thể điều tra các địa chủ Tuyên Đại, Cam Ninh, sẽ thấy phần lớn bọn họ có quan hệ gia tộc với các quân quan ở đó.

Chúng tướng vội vã phụ họa:

- Đúng thế thưa phòng chính đại nhân. Nhưng chúng tôi không giống bọn họ, nguyên nhân cũng vì một khi biên phòng thất thủ, mọi tội lỗi liền đổ lên đầu chúng tôi. Ngài xem mấy chục năm nay các vị đốc phủ, tổng binh, có ai có thể chết già trên cương vị không? Từ lúc chúng tôi lên nhậm chức, sớm chiều đều lo sợ, chỉ sợ làm không tốt thì họa tới con cháu, người nào còn dám đi bớt xén quân tư, bóc lột sĩ tốt?

Nhất thời ai cũng có vẻ đáng thương, nào còn cái vẻ bệ vệ thường ngày.

Thẩm Mặc lặng yên nghe chúng quan kể khổ, đợi đến khi họ nói xong mới bình thản nói:

- Ta cũng không thể biết hết mọi chuyện, nếu chư vị khổ sở như vậy, vì sao còn xích mích với nam quân lên tiếp viện? Chẳng lẽ chư vị không biết bọn họ tới là để giúp chư vị sao?

Chúng tướng bừng tỉnh, thì ra Thẩm lão vòng vo như vậy là vì chuyện này. Đành phải nói vì biên quân không ưa nam quân, nam quân cũng coi thường biên quân, hai bên lại ở cùng nhau nên rất khó quản lý, cho nên mới xảy ra vấn đề.

- Vậy để cho biên quân thủ trong thành, nam quân ngoài thành.

Thẩm Mặc gõ gõ tay nói:

- Huynh đệ không hợp còn ra ở riêng, sao cứ bắt bọn họ ở chung một chỗ?

Khuôn mặt chúng tướng khẽ biến... Kỳ thật mâu thuẫn của nam quân và biên quân chính là vì hai quân quá cách biệt giàu nghèo. Mặc dù Thẩm Mặc đã cố gắng can thiệp, hiện tại biên quân đều được tuần phủ nha môn trả lương hàng tháng, nhưng mỗi tháng chỉ có ba tiền, vẫn như trước không đủ ăn, đừng nói trang bị quân tư, trang bị.

Nam quân thì ngược lại, theo yêu cầu của Thẩm Mặc, áp dụng chính sách "Bản tỉnh cung đệ", tức là binh Chiết Giang thì Chiết Giang trả lương bổng, binh Phúc Kiến thì do Phúc Kiến phụ trách, hơn nữa vì đều là mộ binh cho nên lương bổng gấp mấy lần biên quân, cũng chưa bao giờ khất nợ. Về trang bị thì hè có quần áo mùa hè, đông có trang phục mùa đông, một năm bốn mùa quần áo chỉnh tề, cho dù bị trì hoãn thì cũng rất nhanh được bổ sung.

Hai quân đối lập như vậy đương nhiên khiến cho biên quân đố kị, mà các võ tướng lại mượn cơ hội gây chuyện, mang nguyên nhân tướng sĩ dưới trướng ăn không đủ no, mặc không đủ ấm đổ lên đầu nam quân... Nói bọn họ đi từ xa tới, không thể mang theo vật tư, nên dùng tiền mang theo mua đồ ăn tại chỗ, dẫn đến giá cả tăng cao, hơn nữa còn làm cạn kiệt vật tư, làm cho biên quân bọn họ càng thêm khó...

Dưới sự kích động khéo léo như vậy, mâu thuẫn của biên quân và nam quân ngày càng gay gắt, gần như mỗi ngày đều có ẩu đả xảy ra, thậm chí án mạng cũng không phải không có. Ngay cả các vị tổng binh cũng bị ảnh hưởng mà cuốn vào mâu thuẫn lúc nào không hay, cho nên mới có việc tranh súng vừa rồi.

- oOo-

Dù đã làm thứ phụ, có địa vị cao quý, nhưng Thẩm Mặc cũng không cách nào giải quyết vấn đề này, trừ phi y có thể thuyết phục nam quân chi trả quân phí cho cả biên quân.. Nhưng chuyện này là chuyện không thể xảy ra, cho dù y có là Đông Nam vương, thì cũng phải dựa vào lợi ích của Đông Nam mà quyết định, nếu y cứ làm theo ý mình thì chắc chắn sẽ bị quan thân đại hộ ruồng bỏ.

Y chỉ có thể áp dụng biện pháp tách rời hai quân trước, ngoài ra cũng chẳng còn cách nào.

Chúng tướng nghe vậy cũng thấy đây là biện pháp tốt nhất có thể làm bây giờ, nhắm mắt làm ngơ, giả mù giả điếc, như vậy sẽ giảm rất nhiều chuyện phiền phức. Vì thế tất cả đều đáp ứng, sau khi trở về sẽ áp dụng.

Nhưng tổng đốc Kế Liêu Tào Bang Phụ rất có lập trường, hắn hỏi:

- Làm vậy bình thường còn được, nhưng nếu như gặp phải đại chiến sẽ rất khó hợp lực.

- Nói không sai.

Thẩm Mặc gật đầu, nhìn hắn nói:

- Nhưng huynh có biện pháp tốt hơn sao?

Tào Bang Phụ lắc đầu, đây vốn là sự khác biệt tài lực giữa nam và bắc, không thể dựa vào sức người mà bù đắp, hắn nói:

- Không có nam binh thì không phòng thủ được, có nam binh rồi thì không tiến công được, đúng là cũng chẳng còn cách nào.

- Nhiều người thì đương nhiên tốn cơm.

Thẩm Mặc vung tay lên, kiên quyết nói:

- Cho nên chiến lược mấy năm tiếp theo của chúng ta, không thể chỉ tiến công, mà phải vừa công vừa thủ.

Nếu như ngay từ đầu nói như vậy thì chúng tướng chắc chắn sẽ phản đối, ai lại muốn người khác tác oai tác quái trên đất của mình chứ? Nhưng sau khi bị Thẩm Mặc dụ dỗ dọa dẫm, chúng tướng đều thấy chuyện này là việc nên làm, không có ai có ý kiến gì.

Thấy đã làm chủ được tình hình, Thẩm Mặc nâng chung trà lên uống một ngụm, thấy nước trà hơi lạnh thì khẽ cau mày:

- Thật ra nếu muốn ổn thỏa, thì phải chuẩn bị trong mười năm, sau đó mới cùng Thát Lỗ quyết chiến.

Chúng tướng đều gật đầu, đúng vậy, nếu như có thể có mười năm dưỡng sức, chắc chắn biên quân sẽ không sống dở chết dở như bây giờ, đánh cũng không thể đánh, đến lúc đó binh cứng lương đủ, sao phải sợ nam quân? Hơn nữa mười năm sau, Yêm Đáp đã bảy mươi tuổi, gần đất xa trời, có khi chết rồi cũng không chừng, mà người như lão ở Mông Cổ rất khó kiếm người thứ hai, người có thể đoàn kết các bộ lạc. Có khi sau khi hắn mất, tám phần mười sẽ tam phân ngũ liệt, đến lúc đó chỉ còn phải đối phó với các bộ lạc riêng lẻ, độ khó cũng giảm đi rất nhiều.

"Thật ra thì Đại Minh vẫn chưa chuẩn bị để khai chiến toàn diện." Trong lòng mọi người đều nghĩ vậy.

- Ta biết có người hy vọng tới lúc Yêm Đáp chết già.

Thẩm Mặc vỗ bàn nói:

- Hy vọng vào việc địch nhân bị thời gian giết chết là suy nghĩ của kẻ nhu nhược! Chẳng may Yêm Đáp sống thọ trăm tuổi, lẽ nào Đại Minh ta còn phải chịu chà đạp bốn mươi năm?

Bình Luận (0)
Comment