Lúc này Niên Vĩnh Khang, Hình Ngọc, Trần Phi Đức... À chính là Trần phủ đài ấy, ba người từ bên ngoài đi vào, mặt mày mang ba phần hớn hở, bảy phần sợ hãi, bẩm báo với Thẩm Mặc:
- Trong thành phát hiện ra chín chỗ phóng hỏa, may mắn là ông trời phù hộ, tuyết rơi lớn, chúng ta lại có phòng bị, kết quả tổn thất rất ít, đã dập tắt hết cả rồi.
- Có điều kẻ phóng hỏa lại không bắt được.
Niên Vĩnh Khang bổ xung.
- Không sao, tăng cường tra xét, đề cao cảnh giác, không sợ bọn chúng gây sóng gió nữa.
Thẩm Mặc gật đầu cười:
Hình Ngọc và Trần Phi Đức mặt đầy vẻ khó tin:
- Đại nhân, chẳng lẽ ngài có phép thuật, biết trước được có kẻ muốn làm loạn.
Thẩm Mặc chưa kịp trả lời thì các vệ sĩ đã áp giải Khâu thiên hộ tới, vừa rồi hắn còn kích động hăng như gà chọi, giờ thì như gà nhúng nước, hai mắt thất thần nhìn Thẩm Mặc lẩm bẩm,
- Vì sao lại như thế?
Người ở trong phòng đều nhìn về phía Thẩm Mặc, hi vọng y công bố đáp án.
Thẩm Mặc nói thản nhiên:
- Điều này công thuộc về huynh đệ Cẩm Y Vệ, do bọn họ cảnh giác cao, bắt được tín sứ của Bạch Liên giáo, cho nên bản quan mới có thể ung dung bố trí.
Trần Phi Đức hỏi Niên Vĩnh Khang:
- Niên thiên hộ, làm sao ông nhận ra được ra trong bao nhiêu người như thế, ta thấy không khác gì người dân bình thường cả.
- Kỳ thực vẫn có khác biệt.
Niên Vĩnh Khang nói:
- Mặc dù bọn chúng hóa trang thành thương nhân bán rong, nhưng lưng thì thẳng tắp, đùi nhỏ, bắp chân lại to, hiển hiên là thường xuyên đi đường, song lại không vác nặng. Ta hỏi bọn chúng làm nghề này mấy năm rồi, bọn chúng đều nói ba tới năm năm, nhưng trên vai thì không hề có vết gánh hàng đè xuống... Sau đó ta lại tùy tiện kiếm cớ, bảo trong hàng của bọn chúng có đồ cấm, hàng bỏ lại, người có thể đi, ai ngờ bọn chúng vui vẻ đồng ý hết.
Hắn gằn giọng:
- Đối với một người bán hàng rong thực sự mà nói, gánh hàng là đồ kiếm cơm của bọn họ, liên qua tới việc có sinh tồn tiếp được hay không, làm sao có thể tùy tiện vứt bỏ, thế nên tất nhiên bọn chúng chỉ là hàng giả.
Trần Phi Đức vừa nghe vừa gật gù, tán thưởng:
- Niên thiên hộ tư duy kín kẽ, xem ra trận này công đầu thuộc về ông rồi.
- Phủ đài đại nhân quá khen.
Niên Vĩnh Khang khiêm tốn:
- Mặc dù ti chức bắt được những kẻ đó, nhưng bọn chúng chỉ là công cụ truyền tincũng không biết nội dung mệnh lệnh, do Thẩm đại nhân phá được Bạch Liên mật ngữ, mới có thể dụ rắn dời hang, kỳ thực Thẩm đại nhân công lao lớn nhất.
Cả đám thầm nhủ, tên Niên Vĩnh Khang này rất biết chơi, thế nào tiền đồ cũng vô cùng rộng mở.
Lời của Niên Vĩnh Khang khiến cho Khâu thiên hộ kinh khủng thốt lên:
- Cái gì? Ngươi phá được mật ngữ của bản giáo?
Đương nhiên lời này là hỏi Thẩm Mặc.
- Chỉ biết qua một chút bề ngoài thôi, còn định thỉnh giáo Khâu thiên hộ thôi.
Thẩm Mặc tươi cười:
- Ta rất là hiếu kỳ với mật ngữ của các ngươi đấy.
- Ngươi không hiểu?
Khâu thiên hộ thắc mắc:
- Vậy làm sao làm giả được mật ngữ của sư phụ ta.
- Kỳ thực không thể gọi là ngụy tạo được.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Nói bắt chước thì hợp lý hơn một chút...
~~~~~~~~
Lại quay về lúc Thẩm Mặc thẩm vấn xong bốn tên tín sứ của Bạch Liên giáo, có được mấy bản "Bạch Liên mật ngữ", rồi lại sai Niên Vĩnh Khang tìm được sự kiện tương ứng, để quá đó tiến hành phá giải.
Y biết, chỉ có thông qua phân tích tin tức có cùng tính chất, mới có được kết quả hữu dụng.
Mà Bạch Liên mật ngữ mặc dù có ít ký hiệu, tin tức chẳng được là bao, nhưng có thể suy ra được cùng một điểm chung, đó là thời gian. Một mệnh lệnh chính xác rõ ràng, bất kể là phải tước giảm đi bao nhiêu yếu tố cũng không thể thiếu được một thời gian biểu.
Còn Thẩm Mặc lớn gan nhận định, tên Tiêu Cầm kia không cần thiết, cũng không thể có năng lực sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ riêng. Cho nên cái gọi là Bạch Liên mật ngữ, rất có khả năng là loại hoắc thoại được ký hiệu hóa, che từ ẩn nghĩa, so với loại ám hiệu mà Tào bang thường dùng cùng một kiểu, chẳng qua Tiêu Cần dùng hình vẽ biểu đạt ý tứ mà thôi.
Vậy có khả năng rất cao từ một tới mười phải dùng ký hiệu khác nhau để biểu hiện, sau đó là xuất hiện đơn độc, hoặc là tổ hợp hai hai, dùng để biểu thị ngày tương ứng.
Cảm thấy suy đoán của bản thân cơ bản chính xác, Thẩm Mặc liền tìm kiếm xác minh trong tin tức hữu hạn kia. Trừ một cái chưa rõ, còn những cái còn lại đều đã rõ ngày tháng cụ thể, lần lượt là "mùng một, mùng 5, mừng 8,11,12,18,25".
Nhưng trong hắc thoại thường thường không có hai mấy và ba mươi, dùng hai và ba thay thế. Cho nên Thẩm Mặc suy đoán, trong những hình vẽ đó, hẳn có ba số trùng nhau đại biểu cho số "mười", hai cái trùng nhau đại biểu cho một, và hai cái đại biểu cho 8, hai cái đại biểu cho 5, hai cái đại biểu cho hai. Mà cái đại biểu cho hai kề sau cái đại biểu cho một, đứng trước cái đại biểu cho 5...
Cứ tuân theo quy luật đó đi phá giải, Thẩm Mặc liền giả thiết đầu tiên là thời gian biểu, sau đó che đi ký hiệu đằng sau, chỉ để lại hai ký hiệu đầu, sau đó dùng thời gian xảy ra sự kiện thay thế vào những ký hiệu tương ứng, cuối cùng so sánh, tính đoán, đại bộ phận đều trùng khớp.
Chỉ duy nhất cái cuối cùng, lại là 24 chứ không phải là 25, cho nên không có hai số 5, mà là một bốn một năm.
Thẩm Mặc không khinh suất phủ định giả thiết này, y quay về so sánh ngày tháng và sự kiện tương ứng, phát hiện ra sự kiện toàn thôn phản loạn bỏ chạy.. Thế là y lấy lại được tự tin.
Sự kiện toàn thôn di chuyển tất nhiên là kéo dài lề mề, chênh lệch so với ngày tháng báo cáo một vài ngày là chuyện hết sức bình thường.
Vì thận trọng, y lại đem so sánh với hai ký tự cuối cùng, nhưng không tìm được thứ mang tính quy luật, thế là y đưa ra kết luật cuối cùng:
- Hai hình vẽ đầu tiên đại biểu cho ngày.
Niên Vĩnh Khang vỡ lẽ:
- Vậy này bọn chúng phát động, ắt phải là ngày 22 rồi.
Trong ám ngữ lần này hai hình vẽ đầu đều là mặt trăng, tất nhiên đại biểu cho con số lặp lại, mà trong một tháng có ba mươi ngày, chỉ có số 22 là thỏa mãn điều kiện đó.
Thẩm Mặc cười:
- Đúng thế, mặt trăng đại biểu cho 2, vó ngựa đại biểu cho 1, chỉ có hai con số này mới phù hợp.
Niên Vĩnh Khang nghĩ một lúc, gật đầu tin tưởng:
- Đúng thế, chỉ có hai con số này là phủ hợp.
Bất kể là tên Tiêu Cần kia có cẩm nang diệu kế gì, chỉ cần đem thời gian đẩy lên trước một ngày, cái còn lại giữ y nguyên ban đầu, là có thể làm cho đám người ẩn trong chỗ tối hành động trước thời hạn, nhưng vì không có ai tiếp ức chỉ nên bại lộ uổng công.
Thẩm Mặc liền đem hai hình mặt trăng trong ám ngữ sửa thành mặt trăng và vó ngựa, sau đó sai hai tên tín sứ nóng lòng lập công đi viết vào địa điểm bí mật trong thành. Niên Vĩnh Khang thì ngầm theo dõi, kết quả thông qua phương pháp này, theo dõi phát hiện ra hơn nửa số gian tế, trong đó có Khâu thiên hộ.
Tên Khâu thiên hộ đó không phải hành động không đủ kín đáo mà là thân phận quá mẫn cảm, cho nên vừa mới vào ngõ liền đã bị người của Cẩm Y Vệ theo dõi.
Cơ hội chỉ có một lần, qua rồi là không trở lại, mưu kế của Tiêu Cẩn bị Niên Vĩnh Khang tỉ mỉ cẩn thận và Thẩm Chuyết Ngôn thông minh tuyệt đỉnh phá vỡ, định sẵn nó trở thành một bi kịch lớn.
Rất nhiều năm sau, cho dù khi đã tóc trắng bạc phơ, Tiêu Cẩn lưu vong Siberia cũng không sao quên được cái đêm ngày 22 tháng 12 năm Gia Tĩnh thứ 40, ở ngoài thành Tuyên Phủ tuyết trắng mù trời, hắn tận mắt chứng kiến một trận thảm bại.
Đối diện với ánh mắt phun lửa của bốn tên Thai Cát, hắn chỉ biết trợn mắt cứng họng, không thể trả lời, điều duy nhất mà hắn có thể xác định được, đó là mưu kế của mình đã thất bại.
- Ta phải giết ngươi.
Hoàng Thai Cát đùng đùng nổi giận vung roi ngựa quất về phía hắn, Tiêu Cần né tránh không kịp, bị quất một cái thật đau. Hắn còn muốn đánh tiếp thì hai tên đệ đệ của hắn nhỏ giọng khuyên:
- Đại ca muốn đẩy Bản Thăng qua bên Khả Khố Lặc hay sao?
Khả Khố Lặc là nhi tử của Cát Nang huynh trưởng Yêm Đáp, mặc dù sau khi Cát Nang chết, Yêm Đáp kế thừa đại bộ phần gia nghiệp hắn đề lại.
Nhưng có rất nhiều kẻ một lòng trung thành với Khả Khố Lặc, mà Yêm Đáp cũng không thể tham lam một cách khó coi, liền phân chi phạm vi thế lực.
Thực lực của Khả Khố Lặc lớn hơn bất kỳ một tên nào trong bốn tên Thai Cát, hơn nữa hai bên chẳng hề thân thiện thường xuyên vì tranh đấu lãnh địa mà xung đột.
Có điều cái tên này là liều thuốc tốt để xoa dịu cơn giận của Hoàng Thai Cát, hắn tức tối ném roi ngựa trong tay đi, hướng về phía thành Tuyên Phủ cao, đau đớn rống lên như con sói bị thương.
Tuyệt vọng! Trong thời tiết tháng Chạp giá rét tuyết rơi ngập trời, không mang theo bất kỳ một loại công cụ đánh thành nào tới, vốn tưởng rằng chiếm được ưu thế lớn, sáng tạo ra lịch sử lưu danh muôn đời, ai ngờ đâu chưa nói bị người ta chặn ngoài cửa, còn vác gậy đánh cho té đái vãi phân.
Vào lúc này, cho dù là người Mông Cổ lạc quan nhất cũng không tin tưởng có thể chạm vào thành Tuyên Phủ được nữa. Trộm gà không được còn mất nắm gạo, sỉ nhục, đúng là sỉ nhục!
Nếu như cứ như thế cắm đầu trở về, bốn tên Thai Cát có thể tưởng tượng ra được nụ cười nhạo báng của Khả Khố Lặc, điều này thật không sao có thể tiếp nhận được.
- Ít nhất phải kiếm được một mớ.
Hoàng Thai Cát hung tợn nhìn chằm chằm Tiêu Cần:
- Nếu không ta nộp ngươi cho quân Minh.
Tiêu Cẩn cười khổ gật đầu:
- Được rồi, để ta nghĩ cách.
Đêm ngày hôm đó người Mông Cổ ở ngoài thành phải đắp tuyết mà ngủ, quân Minh ở trong thành mặc dù nhân số đông đảo, lại lấy nhàn đợi mỏi, nhưng lại không hề có ý xuất kích.
Với tính cách thêm một chuyện chẳng bằng bớt một chuyện của quân Minh, có thể đuổi được người Mông Cổ đi là đã phải thắp hương lạy tạ rồi, còn về ra thành chém giết á? Thôi tỉnh lại đi, nguy hiểm lắm.
Thẩm Mặc đứng trên tường thành, nhìn người Mông Cổ thoải mái ngủ trong đất tuyết, lại nhìn tướng lĩnh khôi giáp đầy đủ trong thành, không khỏi nghĩ thầm:" Nếu không thay đổi thì thế nào cũng mất nước.." Nhưng y biết nặng nhẹ hoãn gấp, lúc này không nói gì cả, để mặc cho bọn họ.
~~~~~~~~~~~~~~
Ngày hôm sau cho tới tận trưa cũng không thấy động tĩnh gì, quan viên Đại Minh trong thành đều rất cao hứng nói Thát Đát đã mất nhuệ khí, không dám đánh thành nữa rồi.
Thẩm Mặc cũng suy nghĩ như thế, liền kiên nhẫn đợi Hoàng Thai Cát lui binh, nhưng tới chiều có một mũi tên bắn vào trong thành, thủ quân nhổ mũi tên ra, bên trên có gửi kèm một lá thư. Vội vàng giao cho Hình tướng quân đang tuần tra trên thành. Hình Ngọc mở ra xem, là thư của Hoàng Thai Cát gửi cho Dương Thuận, nói:" Ta đã tới theo ước hẹn, cũng đã diễn kịch rồi, ngươi mau mau trả bạc và lương thực cho ta. Nếu không ta đem thư do chính ngươi viết cho hoàng đế của các ngươi xem."
Hình Ngọc biết chuyện này không phải tầm thường, vội vàng đem thư cho Thẩm Mặc định đoạt. Thẩm Mặc xem xong, lệnh người đưa thị vệ trưởng của Dương Thuận, cũng là kẻ đi gửi thư, biết được trong tay Hoàng Thai Cát đúng là có một bức thư như thế, hơn nữa còn đóng dấu riêng của Dương Thuận.
Sau khi tin tức được xác nhận, Thẩm Mặc hồi lâu không nói gì, quan viên văn võ trong phòng cũng ai nấy khẩn trương, không dám thở mạnh, bọn họ đều hiểu, lần này gặp phải phiền phức lớn rồi.
Vụ uy hiếp trắng trợn này không hề đơn giản như bề ngoài, thực tế, đây đã thành một vấn đề chính trị nghiêm trọng. Phản ứng đầu tiên của mọi người tất nhiên là không đồng ý.
Nhưng Thát Đát sẽ đem thư của Dương Thuận đưa tới Bắc Kinh, làm hoàng đế và triều đình mất mặt, sau đó vì thể diện của triều đình, vẫn phải nhận món nợ này, trả tiền và lương thực cho Thát Đát.
Vậy thì đồng ý sao? Càng không được, triều đình Đại Minh vĩnh viễn là phái ngoan cố, nổi danh với chính sách ba không, không cầu hòa, không bồi thường, không cắt đất.
Tới ngay cả hoàng đế bị người ta bắt sống rồi còn không trả tiền chuộc, giờ chỉ vẻn vẹn một bức thư, tựa hồ còn xa mới bằng hoàng đế.
Hơn nữa Thát Đát ngoại trừ đòi bạc và lương thực như đã hứa, còn muốn phủ tuất hơn 600 kỵ binh Mông Cổ bị quân Minh "ngộ sát" đêm qua, lại thêm 10 vạn lượng bạc nữa.
Nhiều bạc như thế thì ai bỏ ra cho nổi, mà cho dù có trả nổi cũng không thể trả, nếu không chẳng phải thành Cừu Loan nộp tiền bảo kê cho địch sao?
Ai dám gánh vác trách nhiệm đó?
Cho nên mọi người đều đều không dám lên tiếng, nhìn hết vào Thẩm Mặc, hi vọng y có thể gánh vác được trách nhiệm này... Hay nói cách khác là giơ đầu ra chịu tội.
Thẩm Mặc từ lâu đã quen một mình gánh vác tất cả, chẳng hề có chút hoảng loạn nào, đầu óc vẫn giữ nguyên vẹn sự tỉnh táo, cười nói với mọi người:
- Tên Hoàng Thai Cát này đưa ra một vấn đề hóc búa thật đấy.
Mọi người cười phụ họa:
- Đại nhân thần cơ diệu toán, đối phó với Thát Đát dễ như trở lòng bàn tay thôi.
- Các vị tâng bốc ta rồi, ta chẳng có ý gì hay, chỉ đành làm thế này thôi.
Liền sai bảo làm thế này thế này... Đám quan viên nghe mà trố mắt há mồm, hận không thể vái y làm sư phụ, xin y dạy cho đạo Hậu Hắc.
*** Hậu Hắc học, kiến giải cách xử lý vấn đề.
Tiêu Cần đưa ra chủ ý như thế cho Hoàng Thai Cát xong, người Mông Cở liền dựng lều bạt ngoài thành đợi quân Minh trở lời.
Tời khi trời tối mới có mũi tên bắn ra, thủ hạ đưa cho Hoàng Thai Cát xem, hắn không biết chữ Hán... Không biết cả chữ Mông Cổ, nên hỏi Tiêu Cần:
- Thư này viết cái gì?
Tiêu Cần mặt âm trầm nói:
- Bọn chúng nói hai quân giao chiến, có thể dùng bất kỳ chiêu số gì, phong thư đó của Dương Thuận là kế sách dụ chúng ta vào bẫy, không thể coi là bằng chứng đòi tiền, hoàng đế của bọn chúng rất anh minh, chỉ cười mà thôi.
- Khốn kiếp! Vô sỉ.
Hoàng Thai Cát chửi mứng:
- Giấy trắng mực đen, lại còn đóng dấu, sao có thể không tính.
Mặc cho hắn tiếp tục bắn tin thế nào, nhưng thành Tuyên Phủ đều không để ý tới, chỉ con hắn nghèo quá hóa điên.
- Mau mau nghĩ cách đi! Tên ngu xuẩn nhà ngươi.
Hoàng Thai Cát quả thực muốn điên rồi, đem Tiêu Cần làm chỗ trút giận:
- Nếu ngươi không nghĩ ra cách, ta sẽ đưa ngươi vào thành.
Tiêu Cần bất lực gật đầu, kỳ thực hắn đã có chuẩn bị chiêu tiếp theo, nhưng thấy nó quá đê tiện bỉ ổi, cho nên mới chưa dùng.
Ngày hôm sau, Thẩm Mặc vừa mới rời giường thì Tam Xích liền đi nhanh vào nói:
- Đại nhân, mau mau đi xem, người Mông Cổ thật đáng ghê tởm.
Thẩm Mặc liền khoác áo choàng, lên thành lâu nhìn ra bên ngoài, liền thấy kỵ binh người Mông Cổ xua hơn một nghìn bách tính người Hán, tới khoảng cách ngoài tầm bắn trong thành.
Đám quân Mông Cổ giương cung, xếp thành hình dẻ quạt, bao quanh người dân kinh hoàng. Trong số đó có nam có nữ, có giả có trẻ, ôm nhau, che chở nhau, tựa hồ tới cùng một chỗ.
Đám đông vốn khóc lóc thảm thiết, nhưng quân Mông Cổ không chút thương xót bắn chết mấy nam tử, tức thì tất cả ngậm chặt miệng, lặng ngắt như tờ.
Tiếp đó một giọng nói lớn:
- Oan có đầu, nợ có chủ, nếu các ngươi có hận thì hận đám người bên mình trên thành thấy chết mà không cứu, bọn ta chỉ muốn lấy tiền thuộc về bọn ta, lấy được thì thả người, không lấy được thì giết người.
Lời vừa dứt, người Mông Cổ liền bắt đầu giết người, bọn chúng chủ tâm phát tiết oán hận và giận dữ mấy ngày qua, vờn cho người dân sợ vỡ mật rồi mới vung đao chém giết.
Giết xong còn không buông tha, sai thủ hạ lấy đao chọc vào đầu lâu, đá đi đá lại chơi.
Chương 607: Can đảm đôi khi cũng bùng phát- Súc sinh!
Nhìn thấy cảnh này thấy cảnh này, mắt muốn trợn trừng đến toét ra, đấm mạnh vào tường thành, tức thì máu tươi chảy ra.
Hình Ngọc ở bên cạnh vội nói:
- Đại nhân, tay ngài chảy máu rồi.
Muốn đi tới băng bó cho y, nhưng bị Thẩm Mặc đẩy ra một cách thô bạo.
Thấy Thẩm đại nhân luôn hòa nhã nổi giận như thế, Hình Ngọc ngây ra, Thẩm Mặc vung nắm đấm chảy máu nói:
- Tay ta chỉ xước chút da ngươi khẩn trương như thế, còn bên ngoài bách tính bị tàn sát ngươi lại coi như chuyện bình thường.
Khuôn mặt thanh tú của Thẩm Mặc lúc này bùng nổ, gân xanh nổi lên, hung tợn đáng sợ, gầm thét:
- Cho dù các ngươi có quên mình là quân nhân Đại Minh thì cũng chưa quên mình là nam nhân chứ? Thò tay vào trong quần sờ xem thứ của nợ kia có còn không?
Tuyết vẫn còn rơi, mặc dù không lớn như hai ngày trước, song vẫn khiến cho tầm nhìn của người ta mơ mơ hồ hồ, trời đất là khoảng trắng mênh mang, máu tươi tung tóe trước mắt trở nên vô cùng nhức mắt.
- Là nam nhân mà nhìn đồng bào của mình bị giết lại không chút động lòng?
Giọng nói phẫn nộ vượt tầm kiềm soát của Thẩm Mặc vang vọng tường thành Tuyên Phủ:
- Là nam nhân mà không có chút dũng cảm nào à?
Câu nói này y đã nín nhịn rất lâu rồi, vốn không định nói, không muốn nói, nhưng hôm nay không nhịn được nữa, cuối cùng nó đã bộc phát ra.
Cả đám quan viên đều cúi đầu xuống, mặt Hình Ngọc đỏ bừng bừng, hắn đường đường là tướng quân nhị phẩm, đã bao giờ bị sỉ nhục như thế? Cắn răng nói:
- Mời đại nhân thu hồi lại những lời vừa rồi.
- Đừng mơ.
Thẩm Mặc xé vạt áo, băng qua loa vết thương, hướng về phía toàn thành cười khẩy:
- Họ Thẩm ta tuy chỉ là một thư sinh, nhưng là đấng nam nhi, ta sẽ rời thành chén giết với Thát Đát, cho dù máu phun ba thước cũng phải phun lên người Thát Đát.
Nói rồi quát lớn:
- Tam Xích, chuẩn bị ngựa.
Tam Xích đáp vang:
- Tuân lệnh.
Rồi mau chóng chạy xuống thành.
- Đại nhân, ngài là quan văn...
Hình Ngọc đưa tay ra ngăn cản, nhưng bị Thẩm Mặc gạt đi:
- Võ tướng không ra mặt, quan văn phải lên trận thôi.
Nói xong cũng xoay người xuống thành.
Quan binh trên thành đưa mặt nhìn nhau, thấy tướng quân đại nhân mặt như gan lợn, tên phó tướng ở bên cạnh dè dặt hỏi:
- Tướng quân, chúng ta phải làm sao bây giờ?
Hình Ngọc dậm chân nói:
- Mẹ nó, ép người ta, chết cũng chết cho ra dáng nam nhi.
Rồi cũng đi theo Thẩm Mặc... Hắn không thể không theo, Thẩm Mặc là khâm sai đại thần, thân tín của hoàng đế, nếu y có gì bất chắc, hắn không đền nổi.
Thấy tướng quân đại nhân xuống rồi, phó tướng vội vàng gọi thủ hạ:
- Mau lên, doanh thân vệ đi theo.
Liền kéo nhanh ào ào xuống thành... Cũng đạo lý tương tự, nếu Hình Ngọc có gì không hay xảy ra, bọn chúng cũng gặp vận rủi hết.
Thẩm Mặc đã xuống lâu thành trước một bước, hai hai thân vệ đã nai nịt gọn gàng đợi lệnh, thấy đại nhân cũng muốn lên ngựa, Tam Xinh kéo giây cương, nói nhỏ:
- Đại nhân, làm ra vẻ cho có là được, cần gì chứ?
Thẩm Mặc hừ một tiếng:
- Ta không ném mình ra thì bọn chúng có chịu xuất kích không?
- Đại nhân, đao kiếm không có mắt.
Tam Xích cấp thiết khuyên can:
- Huynh đệ chúng tôi đi là được, đại nhân chỉ cần ở phía sau áp trận thôi...
Thị vệ bên cạnh cũng nhỏ giọng khuyên:
- Đúng thế, đại nhân, nghe nói người Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung điêu luyện, kẻ nào cũng đều là thần xạ thủ cả đấy.
Khóe miệng Thẩm Mặc cong lên thành nụ cười quỷ dị, nói nhỏ:
- Thiên thời địa lợi nhân hòa đủ cả, hôm nay chính là cơ hội tốt phá địch!
Lúc này Hình Ngọc đã xuống, mọi người chỉ đành ngừng câu chuyện.
Hình Ngọc mặt âm trầm chắp tay với y:
- Mạt tướng ra là được, đại nhân có thể quay về rồi.
Thẩm Mặc không để ý tới hắn, hạ lệnh cho quan trông thành:
- Mở cửa!
Quan trông thành nhìn sang Hình Ngọc, hắn bất lực gật đầu, then cửa chầm chậm nâng lên, trục quay cũng bắt đầu phát ra tiếng kêu ken két.
Lúc này Thẩm Mặc mới nhìn Hình Ngọc, chậm rãi nói:
- Ta nói quân tướng phương nam điều lên phương bắc chẳng phải là lừa người đâu, triều đình đã thất vọng sức chến đấu của biên quân lắm rồi, chuẩn bị đợi chiến sự phương nam hòa hoãn, liền đem tướng lĩnh biểu hiện nổi bật điều tới cửu biên, đảm nhận tướng lĩnh cao cấp.
Sắc mặt Hình Ngọc càng trở nên khó coi, nếu như đúng như đúng như lời Thẩm Mặc nói, vậy thì quan tổng binh cấp bậc tối cao như hắn, tất nhiên là đứng mũi chịu sào, tâm tình liền thay đổi, quát:
- Dừng.
Tiếng trục quay ngừng lại, then cửa lại hạ xuống.
- Xin đại nhân chỉ giáo.
Hình Ngọc ôm quyền nói:
- Hình mỗ sẽ nghe theo hết.
Thẩm Mặc gật đầu, xuống ngựa bảo:
- Đi theo ra.
Liền dẫn Hình Ngọc quay trở lại thành lâu, những tướng lĩnh kia cũng chỉ còn biết đi theo, thầm nghĩ:" Chuyện quái gì thế này?"
Thẩm Mặc vịn tay lên tường thành, dùng roi ngựa chỉ vào kỵ binh Mông Cổ đằng xa:
- Liên tục mấy ngày trời đổ tuyết, tuyết đã ngập quá chân ngựa. Tuyết dày chắc, vó ngựa lún sâu, kỵ binh Thát Đát hoạt động hết sức chậm chạp. Hơn nữa nhiều ngày trời đổ tuyết, không khí hết sức ẩm ướt, cung tiễn của bọn chúng ngấm nước, giương không căn, độ chính xác và tầm bắn đều sụt giảm lớn, ngươi nói xem điều này có nghĩa là gi?
- Ý đại nhân là?
Hình Ngọc tức thì sáng mắt lên:
- Thiên thời địa lợi nhân hòa đều đứng ở phía bên chúng ta rồi.
Thẩm Mặc thở dài:
- Sức chiến đấu của người Mông Cổ khả năng không bằng được một nửa thường ngày, nếu như thế mà còn không dám đánh, đánh còn không chiến thắng, vậy thì thì chẳng ai tranh luận việc điều quân nam lên phía bắc nữa đâu.
Sắc mặt Hình Ngọc biến ảo một hồi, cuối cùng gật mạnh đầu, ôm quyền nói:
- Vậy thì làm một trận lớn, xin đại nhân đốc chiến, nếu như trận này chúng tôi đánh tốt, đại nhân hãy nói đỡ cho chúng tôi.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Muốn được người khác tôn trọng thì trước tiên phải chứng minh bản thân đã.
Hình Ngọc vỗ ngựa nói:
- Đại nhân, cứ nhìn đi.
Rồi quay đầu lại quát lớn:
- Các con, theo lão tử tới kho quân giới.
Vừa nói vừa bước nhanh xuống thành lâu.
Nhìn theo bóng lưng Hình Ngọc rời đi, Niên Vĩnh Khang luôn đứng im lặng bên cạnh lên tiếng:
- Đại nhân vừa mắng vừa khích, cuối cùng cũng điều động được bọn chúng rồi.
Thẩm Mặc cười khổ, ánh mắt chuyển ra phía ngoài thành, chém giết vẫn tiếp diễn, người Mông Cổ say máu, rõ ràng thích loại phương thức phát tiết này, không muốn dễ dàng ngừng lại.
Sắc mặt Thẩm Mặc lại trở nên khó coi, y phát hiện ra người Mông Cổ ngạo mạn thành quen rồi, căn bản không coi con dân Đại Minh là người, có lẽ trong mắt bọn chúng, người Hán chỉ là một bầy dê đợi giết mổ mà thôi.
Cảnh này lưu lại ấn tượng khắc sâu trong lòng Thẩm Mặc, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của y trong tương lai với người Mông Cổ, nếu như tất cả quay lại điểm khởi đầu, đám Hoàng Thai Cát chắc chắn không muốn tiến hành cuộc giết chóc vô nghĩa này...
Vào lúc đó, tất cả người Mông Cổ đều cho rằng, cuộc chém giết này là chuyện đương nhiên, với dân tộc du mục mà nói, dân tộc canh nông thực sự chẳng khác gì bò dê cả.
Tới ngay cả quân đội Đại Minh, mặc dù nghề nghiệp là binh sĩ, nhưng chẳng hề có chút dũng khí nào, vừa thấy bọn chúng là chạy như chuột thấy mèo, chạy tháo thân còn chẳng kịp, nói gì tới phản kháng.
Tận mắt nhìn thảm kịch trước mắt, khuôn mặt Tiêu Cẩn méo mó, nói với Hoàng Thai Cát đang nướng thịt trong lều:
- Mục đích của chúng ta là tiền lương, không phải là giết người, hãy ngừng cuộc đồ sát vô nghĩa này lại.
Hoàng Thai Cát chỉ liếc hắn một cái, rồi tiếp tục nướng đùi dê của mình:
- Lửa giận của các dũng sĩ cần phải phát tiết, đợi tâm tình bọn họ bình ổn lại sẽ dừng giết người thôi.
- Ngươi làm như thế sẽ chọc giận quân Minh.
Tiêu Cần tức tối nói, tâm tình hắn cực kỳ tệ.
Thực ra người dân trong chu vi mấy chục dặm quanh đây đã chạy sạch rồi, đám Thát Đát hắn dẫn theo căn bản không bắt được ai. Thế cũng đành đi, kết quả vừa vặn lúc này có tin đổ dẫn toàn thôn tới quy thuận hắn, lại va đúng vào mũi đao của người Mông Cổ.
Dưới tình huống như thế, Tiểu Cần không có cách nào bảo vệ được bọn họ, chỉ đành nói với Hoàng Thái Cát, chỉ giết vài người dọa dẫm quân Minh, cẩm lấy tiền là Được.... Bọn chúng là kẻ giả nhân giả nghĩa, nhất định là sẽ đồng ý. Khí ấy Hoàng Thai Cát đồng ý, ai ngờ tới hôm nay, không phải giết vài người mà đồ sát thực sự.
Tiêu Cần không khỏi lo lắng, nếu chuyện này truyền đi, thanh danh của hắn sẽ tồi tệ tới mức nào?
Nhưng hắn không dám đắc tội với người Mông Cổ, nếu không làm sao len lỏi sinh tốn giữa khe hở.
Nhìn thấy Tiêu Cần sắc mặt trắng bệch, Hoàng Thai Cát hừ một tiếng:
- Được rồi, giết một lát nữa thôi là ngừng, để lại cho ngươi hơn một nửa đấy.
Ngực Tiêu Cần phập phồng khịch liệt, cuối cùng không nói gì nữa.
Nhìn thấy dáng vẻ nín nhịn của hắn, Hoàng Thai Cát cười lạnh:" Đám người Hàn là hạng vô dụng như thế đấy, đối diện với kẻ mạnh, ngay cả phản kháng cũng chẳng dám."
Tuyết vẫn cứ rơi, chém giết còn tiếp tục, đất trời mịt mù, tuyết nhuộm màu đỏ.
Cửa nam thành Tuyên Phủ chầm chập kéo lên, phát ra tiếng cành cạch lớn, làm kỵ binh Mông Cổ quên hết chém giết, xách mã đao vấy máu, nhìn cổng thành ầm ầm mở ra.
Chỉ thấy một đám binh sĩ quân Minh tay cầm gậy trượt tuyết dài bảy xích, chân dẫm lên ván trượt tuyết, từ phía trong cửa thành lao ra như chớp, thoáng một cái đã đã đi được rất xa.
- Giết hết bọn chúng.
Tên thiên phu trưởng quát lớn một tiếng, làm đám kỵ binh Mông Cổ bừng tỉnh, tới tấp giương cung lắp tên, còn chưa bắn đã thầm kêu hỏng bét...
Vừa rồi khi bắn giết bách tính Minh Quốc, bọn chúng đã cảm thấy cung tên bị ẩm, tầm bắn và độ chính xác mất hết, nhưng đồ sát người dân tay không tấc sắt căn bản không yêu cầu cao lắm. Lại hoàn toàn không ngờ tới quân Minh sẽ chủ động xuất kích, cho nên không hề để vào trong lòng.
Nhưng trên đời này chẳng có gì tuyệt đối, khi ngươi thấy mọi thứ thành thói quen, thì thường thường là thời khắc nguy hiểm giáng xuống.
Đối diện với cuộc tấn công bất thình lình, người Mông Cổ không kịp điều chỉnh gì nữa, đánh liều giương cung lên bắn, những mũi tên dài bắn ra vù vù, biết sao độ chính xác mất cả, tầm bắt cũng không đủ, đều rơi xuống trước mặt quân Minh, tạo thành sát thương cực nhỏ.
Thấy tình hình đúng như lời Thẩm Mặc nói, sĩ khí quân Minh được cổ vũ rất lớn, những "vận động viên trượt tuyết" một tay cầm gậy trượt tuyết, một tay rút đoản mâu dài ba xích, ném tới tấp về phía người Mông Cổ.
Mặc dù do quá kích động, cho nên ném ra quá sớm, mũi mâu chưa bay tới trước mặt người Mông Cổ thì đã bị chúng né tránh hoặc gạt đi rồi, không gây thương tích trực tiếp được mấy tên.
Nhưng ngựa phía dưới người bọn chúng thì không biết né tránh, mười mấy con bị thương, đau đớn dựng thẳng người hí lên, có con ngã thẳng ra đất, kẻ ngồi trên lưng ngựa tất nhiên không thể may mắn thoát nạn, ngã vào trong tuyết không thấy bóng dáng đâu nữa.
"Bắn người bắn ngựa trước!" Quân Minh tức thì hiểu ra danh ngôn này, dồn dập rút mũi lao tiếp theo ra, áp sát rồi ném.
Mục tiêu lần này chính là chiến mã người Mông Cổ, mặc dù bình thường ít chịu huấn luyện, độ chính xác giới hạn, nhưng so với lần trước tạo thành tổn hai lớn hơn nhiều.
Nhưng cùng với việc hai bên thu hẹp khoảng cách, cung tiễn của người Mông Cổ rốt cuộc cũng khôi phục được một chút uy lực, bắn hơn mười quân Minh ngã xuống đất.
Quân Minh đang lúc cao hứng cho nên không cảm thấy gì, còn phía Mông Cổ đã chịu không thấu rồi.
Hai bên sớm đã quen với tỉ lệ tử thương mười quân Minh đổi lấy một người Mông Cổ, thấy thoáng cái đã có năm sáu chục huynh đệ bị chết, tên thiên phu trưởng kia không chịu nổi nữa, vội huýt sáo, gọi thủ hạ kéo dãn khoảng cách với quân Minh, phát huy tính cơ động cao, tầm bắn xa của cung kỵ thủ Mông Cổ.
Thế nhưng người Mông Cổ tính nhầm rồi, tuyết tích quá sâu, chiến mã đi trên đó đã tốn sức lắm rồi, muốn chạy là căn bản không làm được. Quân Mông Cổ ra sức thục giục, chiến mã thở phì phì, phun ra khói trẵng, miễn cưỡng tung vó, nhưng căn bản không thể chạy nhanh được...
Ít nhất thì cũng không thể nhanh hơn trượt tuyết, kỵ binh Mông Cổ thủy chung không thể vứt bỏ quân Minh lại phía sau, tâm tình trở nên nôn nóng, mũi tên bắn ra càng thiếu chính xác, thậm chí tỉ lệ bắn trúng đã ngang với quân Minh rồi.
Binh sĩ quân Minh sĩ khí tăng vọt, nhẹ nhàng bám theo đít người Mông Cổ, lần lượt ném từng mũi lao một, cho dù chẳng chính xác được là bao, cũng tạo thành sát thương lớn. Không ngờ thành cuộc truy đuổi, đuổi quân Mông Cổ chạy về doanh trại.
Đây đúng là thắng lợi biết bao năm không có, nhưng quân Minh không kịp hoan hô đã nối nhau quay đầu, dùng hết sức bình sinh chạy ngược về. Vì bọn họ nhìn thấy, trong doanh trại đối phương, cũng có nhiều lính Mông Cổ tay cầm cung tiễn dẫm lên ván trượt xông ra.
Chuyện này chẳng có gì mà lạ, bởi vì trượt tuyết là một kỹ xảo săn bắn từ xưa, trước nay người Mông Cổ luôn rất giỏi, trên lưng ngựa của bọn chúng luôn mang theo ván trượt, chỉ là đội vừa rồi không có thời gian tháo xuống dùng mà thôi.
~~~~~~~~~~~~~~~~~
Nhưng có khoảng thời gian vừa rồi đã đủ cho người dân sống sót chạy vào thành, tâm tình người trên tướng thành cũng nhẹ nhõm được một chút.
- Có chuyện này ti chức không hiểu, xin đại nhân chỉ giáo.
Niên Vĩnh Khang nói.
Thẩm Mặc gật đầu.
- Ngựa chạy trên tuyết không thuận tiện, cung tiễn trong thời tiết ẩm ướt uy lực giảm mạnh.
Niên Vĩnh Khang thắc mắc:
- Đối với quân nhân thường xuyên đánh trận và người Mông Cổ mà nói, đây là kiến thức phổ thông phải không?
- Đương nhiên rồi, chỉ cần là người trải qua loại thời tiết này là sẽ biết hết.
Thẩm Mặc nhớ lại:
- Khi kháng Oa ở Giang Nam, do mặt đất lầy lội, cho nên hai bên không dùng tới kỵ binh, trời lại nhiều mưa, cung tiễn cũng gần như không dùng tới, hai bên chỉ dùng trường mâu, mũi lao làm vũ khí sát thương tầm xa... Hiển nhiên là kiến thức này ở phương bắc cũng thế, binh sĩ phương nam còn biết thì phương bắc không
- Vậy thì vì sao mà cả hai bên địch ta đều không ý thức đước được điều đó.
- Không phải là không ý thức được.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Mà là không thèm để ý, người Mông Cổ đã lơ là khinh xuất, bọn chúng căn bản không ngờ được rằng lính Tuyên Phủ quen làm rùa rụt đầu lại thò đầu ra cắn một cái.
- Rùa thò đầu?
Niên Vĩnh Khang phì cười, nhưng nhìn ra ngoài thành, đột nhiên cau mày:
- Bản tính khó rời, lại rút đầu vào rồi.
Thì ra tám nghìn binh sĩ Đại Minh theo Hình Ngọc rời thành áp trận, thầm nghĩ, nhiệm vụ hoàn thành rồi, chắc các huynh đệ cũng đã trở về, thế là không đợi chiến hữu đi ra truy kích quay về, đều quay đầu chuẩn bị vào thành.
Thế nhưng chuyện mà không ai ngờ tới đã xảy ra, cửa thành nặng vạn cân kia ầm ầm hạ xuống, chặn đường lui của bọn họ.
Nhưng sau kinh ngạc ngắn ngủi, lính Tuyên Phủ xả họng ra chửi rủa, hỏi thăm tổ tiên mười tám đời kẻ nào ra lệnh đóng cửa thành.
- Câm mồm hết đi.
Hình Ngọc vẫn còn có chút uy tín, quát lớn một tiếng làm xung quanh yên tĩnh lại, hắn ngẩng đầu lên nhìn tường thành:
- Kẻ nào ra lệnh vậy?
- Bản quan.
Thẩm Mặc trầm giọng đáp.
- Đại nhân đùa kiểu gì thế?
Hình Ngọc cố áp chế lửa giận:
- Chúng tôi đã cứu người dân quay trở về rồi, ngài còn muốn cái gì nữa.
- Các ngươi làm rất tốt, nhưng chưa đủ đâu.
Thẩm Mặc đề cao âm lượng tới mức tối đa, nói với Hình Ngọc và lính Tuyên Phủ dưới thành:
- Vụ án lính Tuyên Phủ giết người dân giả mạo công trạng, kẻ đầu sỏ tất nhiên là Dương Thuận, nhưng các ngươi thân là đồng lõa và đao phủ, cũng không thoát được tội đâu.
Dưới thành xôn xao, không ngờ Thẩm Mặc lại tính sổ với bọn chúng vào lúc này...
Không khí ở trên thành cũng khẩn trương tới cực điểm, Tam Xích suất lĩnh thân binh, Niên Vĩnh Khang và Chu Thập Tam dẫn Cẩ Y Vệ, bảo vệ bên người Thẩm Mặc, chỉ sợ xảy ra biến cố, có kẻ gây chuyện bất lợi cho y.
Nhưng Thẩm Mặc chẳng hề bận tâm, nói với Thẩm Mặc:
- Bản quan hứa sẽ giải tội cho các ngươi. Nhưng cơn giận lôi đình của hoàng thượng không phải một mình ta có thể làm nguôi được, muốn làm hoàng thượng bớt giận, các ngươi chỉ có một con đường lập công chuộc tội.
Nói rồi chỉ lính Mông Cổ đang ngày càng tới gần:
- Các ngươi tổng cộng giết 500 người dân vô tội lấy công, vậy phải dùng 1000 thủ cấp lính Mông Cổ để đền tội. Đêm trước đã giết 601, hôm nay giết chừng 100, còn nợ người dân 399 cái mạng nữa, giết đủ rồi, bản quan sẽ mở cổng thành.
Y phất tay lên, phát lệnh:
- Bắt đầu đi.
Thấy lính Mông Cổ đuổi tới gần lắm rồi, không còn thời gian để cãi vã nữa, trong đầu Hình Ngọc hiện lên lời lẽ vô cùng khinh miệt của Thẩm Mặc "Có còn là nam nhân không? Có còn là nam nhân không?" Liền không nhịn nổi quát lớn:
- Chẳng qua có 400 cái đầu người thôi chứ gì? Có gì mà khó.
Không ngờ khua gậy trượt tuyết, phóng lên trước tiên, thân binh dưới trướng hắn vội vàng theo sau, đám tướng lĩnh Tuyên Phủ còn lại cũng thấy, lĩnh Mông Cổ hôm nay không còn được như mọi khi, liền hò hét "400 cái đầu" rồi lao theo.
Bên phía quân Mông Cổ cũng không phải nhiều lắm, chỉ có chưa tới 2000 người, dù sao bọn chúng là dân tộc sống trên lưng ngựa, không phải dân tộc trượt tuyết, mà người lại thưa thớt, không thể đem kỵ binh quý giá, biến thành lính trượt tuyết để tác chiến với quân Minh được, bọn chúng không gánh chịu được tổn thất có khả năng xảy ra.
Nhưng chỉ bằng 2000 lính trượt tuyết này cũng đã có sát thương rất lớn, cung tiễn của bọn chúng vừa mới lấy từ bên trong bọc ra, vẫn chưa bị thấm ướt, còn giữ được độ chính xác và sức căng.
Nếu chẳng phải bắn trong lúc trượt tuyết cần thời gian nhắm bắn nhiều hơn, phải điều chỉnh nhiều hơn, khiến cho tốc độ bắn giảm xuống thì đúng là có thể khiến cho quân Minh rời thành truy kích kia không thoát được một người nào.
Cứ vừa bắn vừa đuổi như thế, quân Mông Cổ một lần nữa tới gần thành Tuyên Phủ, chỉ thấy ngàn vạn quân Minh hò hét xông tới, tuyết bắn lên che kín đất trời, uy thế không kém gì kỵ binh kết đội xung kích trong khoảng cách gần.
Bính Thỏ Thai Cát đứng đằng xa quan sát cuộc chiến kinh hãi thất sắc, vội vàng thổi tù và thu quân, ai chẳng thương con, 2000 lính trượt tuyết đó đều là con dan của hắn.
Nhưng khoảng cách hơi xa, tiếng tù và bị tiếng hò hét điên cuồng của quân Minh nhấn chìm, tuyệt đại đa số người Mông Cổ không nghe thấy mệnh lệnh, đến khi nhận ra thì muốn rút cũng đã quá muộn rồi...
Chương 608: 400 thì 400Trên đất tuyết trước thành Tuyên Phủ, quân Minh hô lớn "bốn trăm thì bốn trăm" xông về phía quân Mông Cổ.
Quân Mông Cổ trời sinh giỏi chiến đấu, hiển nhiên là mạnh hơn một bậc, vừa rồi đám người kia chịu thua thiệt là vì khinh xuất xem thường, lại không kịp đề phòng, cho nên khi xuất hiện chuyện bất ngờ là hoảng loạn, mới bị quân Minh đập cho một gậy.
Nhưng lần này chúng phản công đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, thấy không còn kịp bắn tên nữa, bọn chúng bình tĩnh cất cung cứng ra sau lưng, cũng chẳng cần tới gươm đao gì, dùng luôn gậy trượt tuyết dài bảy tám xích kia đâm vào vào quân Minh đang xông lên.
Quân Minh phía trước vội vàng né tránh, nhưng bị đồng bào phía sau lao lên va phải, quân Minh tức thì loạn hết cả lên, còn quân Mông Cổ dựa vào đà xông tới, ung dung hoàn thành việc đối hướng, muốn thu hồi gậy trượt tuyết, quay trở về.
Đại bộ phận thuận lợi thoát thân, nhưng cũng có một bộ phận bị chặn lại.
Quân Minh cứ như gà chọi say máu, hò hét:" Bốn trăm thì bốn trăm", ôm chặt lấy gậy trượt tuyết của một số tên lính động tác không được lưu loát cho lắm, nhất quyết không cho đối phương rút về.
Thấy quân Minh phía sau đã nhào bổ tới, đám quân Mông Cổ đó còn nước buông tay cho xong việc, biến kéo thành đẩy, lực phản hồi làm quân Minh ngã cả một đống.
Thấy quân Mông Cổ chớp mắt một cái đã thoát thân, lùi ra xa hơn một trượng, Hình Ngọc tức tới rống lên:
- Ngay cả bốn trăm trên Thát Đát cũng không giữ lại nổi hay sao?
- Bốn trăm thì bốn trăm.
Quâm Minh đã rời thành chiến đấu, nếu như không giết được 400 quân Mông Cổ, thì chẳng còn đường về. Nên cũng nổi điên, ào ào vượt qua đồng bào ngã dưới đất, dùng toàn bộ sức lực lao tới, đương nhiên vẫn không quên đeo khẩu hiệu kia ở trên miệng.
- Bố trăng vì bố trăng?
Mấy tên Thai Cát ở đằng xa cũng nghe thấy khẩu hiệu của quân Minh, đưa mặt nhìn nhau:
- Chẳng lẽ đây là chú ngữ?
Nếu không thì làm sao làm quân Minh đớn hèn có thể đổi tính? Thế là đều nhìn sang Tiêu Cần, hi vọng dân chuyên nghiệp có thể giải đáp nghi hoặc cho bọn chúng.
Tiêu Cần mặc dù quen giả thần giả quỷ, nhưng cũng là người thường mà thôi, biết chú ngữ thần chú gì đâu. Nếu không hắn đã chẳng cần phải nhìn sắc mặt người Mông Cổ làm việc. Nhưng hắn thống hận sỉ nhục một roi trước kia, càng hận Hoàng Thai Cát không giữ chữ tín, tàn sát con dân của hắn, liền nói bừa:
- Trong mật giáo của các ngươi có chú ngữ kim cương bất hoại, trong Bạch Liên giáo của ta có pháp thuật "đao thương bất nhập", hẳn đó là chú ngữ cao nhân nào đó thi triển, khiến cho quân Minh bỏ đi được sự hèn nhát, chỉ biết lao về phía trước.
Bốn tên Thai Cát không phải là hạng dễ bị lừa gạt, nhưng thấy quân Minh ở phía trước đúng là trái lẽ thường, hai bên đánh nhau bao năm rồi, đã từng thấy quân Minh chủ động xuất kích đâu? Hiện giờ lại ùn ùn kéo tới, tất nhiên là được làm phép rồi. Cho nên hoàn toàn tin tưởng vào lời của Tiêu Cần.
- Đại ca, trong thành có cao nhân đấy.
Bố Ngạn Thai Cát nói:
- Đệ thấy lần này chúng ta không đòi được nợ mất rồi.
- Bớt nói nhảm đi.
Hoàng Thai Cát đang bực bội muốn chết đây, bản thân lần đầu tiên phát động chút đại sự, kết quả lại thành ra như thế này, hắn thực sự chỉ muốn kiếm miếng đậu hũ, đập đầu vào chết béng cho xong.
Bính Thỏ Thai Cát thường ngày lắm mồm nhất cũng không nói một lời, hai mắt theo dõi sát sao thế cục biến hóa, vì 2000 quân kia đều là người của hắn.
~~~~~~~~~~~~
Người Mông Cổ phía trước ra sức bỏ chạy, quân Minh ở đằng sau liều chết đuổi theo, tốc độ không chênh nhau là bao. Đáng lẽ kỹ thuật trượt tuyết của người Mông Cổ cao hơn quân Minh nhiều, nhưng không ít huynh đệ bọn chúng bị mất gậy trượt tuyết, phải dùng hai người kéo một, mới làm kẻ đó không bị rơi vào tay quân Minh.
Bên phía quân Minh cũng có vài người có bản lĩnh, thường này thì không có gì nổi trội, nhưng tới thời khắc quan trọng năng lực liền thể hiện ra, bọn họ có thể chạy ngang với tổ ba người bên phía Mông Cổ, khoảng cách đôi bên cũng chỉ chừng hai xích.
Nhưng bên phía người Mông Cổ, phải một tay chống gậy trượt tuyết, một tay kéo huynh đệ, tiếc rằng cha mẹ bọn chúng không sinh cho chúng cái tay thứ ba hoặc cái chân thứ ba, cho nên đành trơ mắt nhìn người ta giơ đao lên, chém mạnh tới.
Thời khắc sinh tử, tuyệt đại đa số mọi người sẽ buông tay huynh đệ ra, lựa chọn né tránh giữ mạng mình, sau đó giải tán tiểu tổ. Nhưng một kẻ bỏ chạy, hai tên còn lại mất thăng bằng, loạng choạng ngã xuống đất, thành oan hoàn dưới đao quân Minh.
Tổ ba người còn lại thấy cảnh đó chỉ đành tách ra, hai tên bỏ chạy thoát thân, tên ở giữa chỉ còn nước tụt lại phía sau, trong chớp mắt bị quân Minh nuốt chửng.
Vào lúc này những đoản mâu thủ quân Minh bị truy kích trước đó xoay người đuổi ngược trở lại, hướng về phía lưng người Mông Cổ, mãnh liệt ném ra vũ khí cuối cùng, tỉ lệ trúng cực cao, tức thì làm người Mông Cổ ngã hàng loạt.
Đối với quân Minh mà nói, đây là sự cổ vũ cực lớn, bọn họ tiếp tục hô cao chú ngữ "bốn trăm thì bốn trăm", dốc sức đuổi giết, mặc dù chẳng giết được là bao, nhưng hơn ở khí thế ngùn ngụt. Đuổi tới tận trước đại doanh của người Mông Cổ, vẫn chẳng hề ngừng nghỉ, hùng hổ xông vào.
Phải nói rằng kỹ thuật cắm trại của người Mông Cổ còn tệ hại hơn cả kỹ thuật dã chiến của quân Minh, chẳng có chướng ngại vật cũng chẳng có hàng rào, chỉ đào mấy cái hào mà thôi.
Chẳng biến là kiến nghị của thiên tài nào, bọn chúng lại dùng đất moi lên, đắp bên ngoài hào bức tường bao không cao cho lắm. Nếu là bình thường thì đương nhiên rất tốt, bằng với làm đường hào sâu thêm mà.
Thế nhưng dưới tình cảnh tuyết lớn liên tục này, nó thành vấn đề lớn. Gió bắc mang thổi vô số tuyền tới dưới tường bao, sau đó đóng thành băng, trải qua hơn hai ngày làm việc của ông trời, không ngờ hình thành một mặt dốc bóng loáng, hơn nữa lại vừa khéo cao bằng tường bao.
Đám quân Mông Cổ kỹ thuật cao siêu khi lui về tới người tường bao, không kịp vào doanh bằng lối cửa, liền theo tiềm thức lao thẳng tới, trượt theo dốc tường bao, được đà quán tính hất lên một đường vòng tuyệt đẹp, vừa vặn vượt qua được đường hào, rơi xuống trong doanh trại, thầm nhủ:" Thế là yên tâm được rồi."
Thế nhưng bọn chúng quên mất rằng, truy binh đằng sau cũng trượt tuyết, hơn nữa còn đang đuổi tới hăng máu.
Loại truy kích không biết mỏi mệt này cực kỳ hiếm thấy với quân Minh, ngoại trừ những lời nói vừa đả kích vừa khích tướng của Thẩm Mặc ra, chủ yếu là giá trị phụ do công cụ giao thông mang lại.
Nếu như đổi trượt thành chạy, lính Tuyên Phủ sức deo dai kém, sớm đã mệt tới sùi bọt mép phải bỏ giữa chừng rồi. Nếu đuổi sang cưỡi ngựa thì đuổi cũng chẳng nổi, người ta sinh ra trên lưng ngựa, ngủ trên lưng ngựa, muốn cưới ngựa đuổi kịp kỵ binh Mông Cổ thì phải lắp thêm đôi cánh nữa mới được.
Chỉ có loại trượt tuyết không quá tốn sức, trình độ đôi bên lại chênh lệch không quá lớn, mới làm quân Minh có thể truy kích liên tục được, mới làm quân Minh mừng rỡ, khí thế như cầu vồng, hô hào "bốn trăm thì bốn trăm", theo người Mông Cổ phóng lên sườn dộc, bay qua đường hào, đánh vào doanh trại người Mông Cổ.
Kỳ thực, theo hồi ức của đại bộ phận quân Minh sau này, sở dĩ bọn họ dũng mãnh như thế là bởi vì tốc độ trượt quá nhanh, nếu như dừng lại, có khả năng bị đồng bào đằng sau xô vào, nên chỉ còn nước lao thẳng về phía trước, không dám dừng lại, cũng không dám quay đầu.
Nhưng trong mắt người Mông Cổ thì đó là tác dụng của chú ngữ thần bí, làm cho quân Minh đớn hèn trở nên không biết sợ chết.
Thêm vào chiến dịch này liên tiếp gặp trở ngại, người Mông Cổ dĩ nhiên nản chí vô cùng, sĩ khí cực kỳ sa sút, mặc dù lập tức triển khai đánh trả, cung tiễn chuẩn xác mãnh liệt bắn về phía quân Minh, đồng thời lập tức tạo thành sát thương rất lớn.
Song bởi vì tốc độ quân Minh quá nhanh, còn chưa kịp bắn đợt thứ hai đã xông tới chỗ cách cánh trái mấy trượng.
Bọn chúng chỉ đành thu cung tiễn lại, dùng gậy trượt tuyết cản trở đối phương tiến lên, đồng thời vừa đánh vừa lui.
- Đại ca, mau ra lệnh rút lui đi.
Bố Ngạn Thai Cát cuống lên:
- Dũng sĩ của chúng ta không thể cưỡi ngựa, khác gì hùng ưng bị gãy cánh, không thể lãng phí vô ích ở chỗ này.
Hoàng Thai Cát mặt âm trầm, hắn ngồi trên lưng ngựa, sao chẳng nhìn thấy bộ hạ hoàn toàn mất đi chiến y, chiến đấu bất kể thắng bại ra sao, đều sẽ tổn thất thảm trọng. Nhưng một chữ "lui" muốn phát ra khỏi miệng lại cực kỳ khó khăn, nó đại điểu lần đầu tiên suất quân của hắn triệt để thất bại.
Chính đang còn suy nghĩ lung tung thì một múi tên màu đen, mang theo tiếng rít chói tai bắn vào ngực của hắn, Hoàng Thai Cát vẫn chưa nhận ra, Bính Thỏ Thai Cát ở bên cạnh lao vào đẩy hắn, suýt chút nữa trúng phải chỗ yếu hại, nhưng bắn vào xương quai xanh bên vai trái.
Hoàng Thai Cát hự một tiếng, ngã ngửa ra lưng ngựa, tạm thời mất ý thức.
Tiên phong quân Minh đằng xa, Hình Ngọc thu lại cung cứng tổ truyền của hắn, xoa xoa bả vai tê dại, toét miệng cười:
- Mau hét đi.
Thân vệ ở bên cạnh hắn đồng loạt hô to:
- Hoàng Thai Cát trúng tên rồi! Hoàng Thai Cát trúng tên rồi.
Quân Minh lại được uống thuốc kích thích, quân Mông Cổ thì lòng người hoảng loạn, ngay cả trận chính và cánh phải cũng xuất hiện dấu hiệu tan rã.
- Đại ca, đại ca...
Hoàng Thai Cát bị gọi tỉnh từ trong hôn mê, nhìn thấy khuôn mặt lo lắng của đám đệ đệ, hắn mấp máy miệng, ra hiệu rút lui.
- Hoàng Thai Cát có lệnh, toàn quân rút lui.
Bố Ngạn Thai Cát lập tức cao giọng tuyên bố.
"Ù ù ù..." Tiếng tù và trầm trầm vang lên, người Mông Cố sớm đã mất sạch chiến ý lập tức chống gậy trượt tuyết, rúi lui toàn tuyến.
Quân Minh chưa bao giờ nghĩ tới có loại cục diện này, không biết phải tiêu diệt địch thế nào cho có hiệu quả trong khi truy kích, cho nên chỉ biết đuổi theo một lúc, làm thịt một số tên người Mông Cổ lạc đội bị ngã, hai bên dần dần xa cách, lãng phí cơ hội cực tốt để tiêu diệt kẻ địch.
Nhưng chỉ như thế thôi đã đủ cho quân Minh hưng phấn reo hò ầm ý, thấy đã đuổi không còn kịp nữa, bọn họ dần dừng chân, nhảy nhót trên tuyết, cứ như là năm mới tới sớm vậy.
Hình Ngọc mặt vẫn đỏ bừng bừng, có điều lần này là do kích động, hắn mệnh lệnh bộ hạ bắt đầu dọn dẹp chiến trường, nhất là tìm kiếm người Mông Cổ, chặt đầu để gom cho đủ 400 tên. Đám phó tướng bên cạnh khen ngợi không ngớt miệng, đều nói lần này ít nhất phải giết trên nghìn người Mông Cổ.
Ai ngờ cuối cùng đếm xong, chỉ vẻn vẹn tìm được hơn ba trăm cổ thi thể, làm mặt Hình Ngọc nóng ran, chửi một tiếng:
- Sấm rõ to, mưa lại nhỏ...
Phó tướng bên cạnh vội an ủi:
- Chúng ta mặc dù không giết được bao nhiêu người, nhưng bắt được hơn một vạn thớt chiến mã của người Mông Cổ, có thể gọi là một trận đại thắng rồi.
Thì ra người Mông Cổ thấy cưỡi ngựa khó di chuyển, liền xuống đất đi ván trượt vào, tiếp đó gặp đúng bại trận, tranh nhau bỏ chạy, chẳng kịp để ý tới chiến mã, để lại hết cho quân Minh làm chiến lợi phẩm.
Kỳ thực những con chiến mã này thấy chủ nhân chạy rồi, cũng muốn đuổi theo, nhưng tuyết quá sâu, chạy được một lúc là mệt, chỉ đành đứng lại nghỉ ngơi, vứt bỏ trung thành với chủ.
Nhìn vô số chiến mã trước mắt, Hình Ngọc cười tươi:
- Đúng thế, cho dù tính một trăm thớt ngựa bằng một người thì hẳn là cũng đủ số lượng rồi.
Liền mệnh lệnh cho bộ hạ dẫn chiến mã trở về, đó chính là chiến mã Mông Cổ thượng đẳng, mặc dù thể hình có nhỏ, nhưng chịu khổ dai sức, tỉnh táo nghe lời, là chiến mã tốt nhất.
Thế nhưng muốn thu phục hơn vạn chiến mã mất chủ không phải là chuyện dễ dàng, khắp nơi trên cánh đồng tuyết vang lên tiếng ngựa hí, người ngã ngựa đổ, vất vả tới tận khi trời sắp tối, mới đem được hết đám ngựa không chịu nghe lời về thành.
~~~~~~~~~~~~
Khi quay trở về, trời đã tối, bọn Hình Ngọc nhìn thấy hai con rồng lửa kéo dài, chiếu sáng đường đi. Tới khi đi đến gần, nhận ra không ngờ là quân dân bách tính thành Tuyên Phủ, cầm đuốc đứng ở hai bên đường, soi đường cho tướng sĩ khải hoàn quay trở về.
Nhìn thấy khung cảnh này, cho dù là tên binh sĩ thường ngày láu cá nhất, cũng không kìm được ngẩng đầu ưỡn ngực, cho dù là kẻ thường ngày tồi tệ trơ trẽn nhất cũng nước mắt vòng quanh.
Bọn họ không biết đó chính là cảm giác vinh dự và tự hào, nhưng tất cả đều cảm nhận được rõ ràng cảm giác này... Con bà nó thật là sướng.
Trần phủ đài suất lĩnh quan viên văn võ nghênh đón giữa đường, nhất tề thi lễ với Hình Ngọc:
- Cung nghênh tướng quân khải hoàn.
- Làm phiền các vị rồi...
Hình Ngọc vừa ôm quyền đáp lễ, mắt vừa đảo loạn lên, như đang tìm kiếm ai đó.
Trần Phi Đức biết hắn đang nghĩ cái gì, cười nói:
- Khâm sai đại nhân đã bày yến tiệc long trọng ở phủ tổng đốc để mừng công cho tướng quân đó.
Hình Ngọc lúc này mới hớn hở nói:
- An bài thức ăn cho các huynh đệ chưa?
- Đương nhiên rồi, chuẩn bị suốt cả một buổi chiều cơ mà. Rượu thịt đầy đủ, cứ say sưa thoải mái.
Lời của Trần Phi Đức khiến đám quan binh reo hò ầm ĩ.
- Mời tướng quân và chư vị thiên hộ tới phủ tổng đốc dự tiệc!
Trần Phi Đức đưa tay ra cung kính mời.
Hình Ngọc liền dẫn ngựa đi trước, tới thẳng phủ tổng đốc.
Trong phủ tổng đốc quả nhiên là đèn đuốc huy hoàng, mỹ tửu thơm ngát, Thẩm Mặc cười tủm tỉm đứng ở cửa, y đã bỏ quan phủ, đầu đội khăn tiêu dao màu xanh nhạt, người mặt áo áo bông màu xanh xám nửa nửa mới nửa cũ, dưới đi tất trắng, giày đen, không dính chút bụi nào, phong độ tiêu sái. Từ đầu tới chân mang dáng điệu một quý công tử gia thế, hoàn toàn không có vẻ mạnh mẽ sát phạt quyết đoán ban ngày.
Song Hình Ngọc bị y làm cho sợ rồi, không dám có chút chậm chế nào, một chân chống, chân sau khuỵu xuống, cúi người hành lễ. Thẩm Mặc đích thân đỡ hắn dậy, mỉm cười nói:
- Mau rửa mặt rồi nhập tiệc nào, cả ngày tướng quân không ăn uống tử tế, hẳn là phải đói lắm rồi.
Ngữ khí nhu hòa cực độ, như đón người khách tha hương từ xa trở về, ấm áp êm dịu, thấm vào lòng người.
Hình Ngọc cùng các tướng lĩnh ra sau rửa mặt, thay y phục sạch sẽ đã chuẩn bị sẵn, phát hiện ra ai mặc vào cũng rất vừa người, dường như may cho chính người đó vậy, không khỏi ngạc nhiên:
- Các ngươi sao làm được điều này?
Tiểu lại hầu hạ bên cạnh cười nói:
- Là khâm sai đại nhân lệnh cho chúng tôi tới nhà chư vị đại nhân trước, mượn một số y phục của các vị, sau đó mới sai thợ may vá làm.
Mọi người không khỏi cảm khái, thầm nghĩ khâm sai đại nhân đúng là quá khách khí, thế là chút oán khí cuối cùng với Thẩm Mặc cũng biến mất hút, kỳ thực đánh thắng được trận này, vạn sự tốt lành, mọi người đều có lợi, đó mới là nguyên nhân chính.
Quay trở về trong phòng khách phủ tổng đốc, mọi người lần lượt ngồi xuống, Thẩm Mặc đứng dậy cầm chén mời rượu, biểu thị chúng mừng Thẩm Mặc.
Hình Ngọc hổ thẹn nói:
- Không dám nhận không dám nhận, cuối cùng chúng tôi tính toán chiến quả, mới chém được hơn trăm người, cách yêu cầu của đại nhân còn gần một trăm mạng nữa cơ.
Các tướng cũng khẩn trương nhìn Thẩm Mặc, chỉ sợ vị khâm sai đại nhân xảo quyệt này lại sinh sự gì đó.
Thẩm Mặc cười xòa:
- À, khi đó ta tính nhầm, sáu trăm người thêm vào một trăm linh một là bảy trăm linh một, các vị chỉ cần giết hai trăm chìn chín là được, ta nói thừa mất một trăm, xin lỗi các vị vậy.
Các tướng nghe vậy nhẹ cả người, đều cười ha hả nói:
- Đại nhân nặng lời rồi.
Hình Ngọc vẫn cứ xấu hổ nói:
- Lần này xuất quân quy mô lớn, vậy mà chỉ chém được không bao nhiêu, mạt tướng càng nghi càng hổ thẹn, chén rượu này, thực không uống vào được.
Thẩm Mặc nhìn hắn đầy vẻ bất ngờ, thầm nghĩ:" Xem ra kẻ này còn có thể cứu được." Liền đi tới tới bên cạnh Hình Ngọc, đặt tay lên vai hắn, ôn tồn nói:
- Hôm nay biểu hiện của các vị đã vượt ra ngoài trình độ thường ngày rồi, băng đóng ba thước không phải do cái lạnh một ngày, tướng quân không cần phải tự trách, cũng không cần tăng thêm chiến quả nữa.
Nói rồi đưa chén rượu tới trước mặt hắn:
- Bắt đầu từ năm sau, chúng ta huấn luyện thật tốt, quản quân nghiêm khắc, để sức chiến đấu của quan binh tăng lên, sau này có cơ hội tác chiến với người Mông Cổ, thì xông lên, giết cho thống khoái, xóa bỏ tiếc nuối ngày hôm nay, được không?
Hình Ngọc nhìn Thẩm Mặc chăm chú rồi nghiêm trang gật đầu:
- Vâng, xin nghe lời đại nhân.
Nói xong nhận lấy chén rượu, vừa định đưa lên môi thì nhớ ra điều gì, hỏi:
- Nói như vậy là đại nhân sẽ bảo vệ cho chúng tôi rồi?
Thẩm Mặc nghe vậy bật cười:
- Biết ngay ý của Túy Ông không phải là ở rượu mà.
Liền quay trở lại chố ngồi, ánh mắt uy nghiêm quét qua mặt các tướng:
- Đúng thế, mặc dù trận này mặc dù đánh không được thống khoái cho lắm, nhưng chung quy vẫn là một đại thắng, vừa khéo vào cuối năm, có thể nói là quà mừng năm mới tốt nhất cho hoàng thượng... Ta nhân cơ hội nói đỡ cho mọi người, hẳn là có tác dụng.
Các tướng nghe vậy thì vui mừng, toàn bộ đứng dậy nói:
- Đa tạ đại nhân chiếu cố, chúng tôi cả đời không quên.
- Đừng có vui mừng vui mừng quá sớm.
Sắc mặt Thẩm Mặc vẫn nghiêm túc:
- Lời xấu ta phải nói trước.
Khung cảnh tức thì trở nên yên tĩnh, Thẩm Mặc hỏi:
- Mười ngày trước những ai có mặt ở căn phòng khách này.
- Hạ quan.
- Ti chức...
- Mạt tướng...
Liền có tám chín quan viên văn võ đáp.
- Các ngươi nhìn thấy cái gì?
Thẩm Mặc trầm giọng hỏi.
- Khởi bẩm đại nhân, chúng tôi được may mắn nhìn thấy đại nhân đại triển thần uy, đấu trí với Dương Thuận Lộ Giai, trong lúc nói cười tước đoạt binh quyền, giam lỏng bọn chúng.
Trần Phi Đức kích động nói:
- Đúng là làm lòng người khoan khoái, tới hiện giờ nghĩ lại vẫn thấy nhiệt huyết sôi trào.
Chương 609: Lão Tây NhiNghe hết lời của Trần phủ đài, Thẩm Mặc thở dài nói:
- Phàm nhìn một sự việc không thể nhìn bề ngoài, chúng ta tiếp xúc với nhau một thời gian ngắn, chắc các vị cũng biết Thẩm Mặc ta là người như thế nào rồi chứ?
Cả đám tức thì nịnh bợ không ngượng mồm, nói toàn là "đại nhân nhân đức", "trí dũng song toàn", khỏe miệng Thẩm Mặc hơi nhếch lên, nhưng lại lắc đầu:
- Các vị không nói thật lòng rồi, ta nghĩ mọi người đánh giá về ta hẳn là không được cao lắm.
- Đại nhân đó đều là lời thật lòng...
Tất cả lắc đầu quầy quậy:
- Chúng tôi kính trọng đại nhân như nước Hoàng Hà chảy mãi không hết, tuyệt đối không có chút oán trách nào.
Thẩm Mặc tựa cười tựa không hỏi:
- Chẳng lẽ các vị không cho rằng bản quan quá âm hiểm quá tàn nhẫn, ra tay không lưu tình chút nào sao?
- Đâu có, đâu có, tuyệt đối là không...
Mọi người vội vàng phủ nhân, nhưng trong lòng thì lại hết sức tán đồng. Thẩm Mặc chuyến này tới Tuyên Phủ đảo lộn trời đất, sát phạ quyết đoán, vừa mới tới đã hạ bệ tổng đốc Tuyên Đại, xoay người một cái chèn ép hai vị khâm sai Chu Đồ mất hết mặt mũi.
Cuối cùng không ngờ dám chặn tám ngàn quân Minh ở ngoài thành, nhất định chém đủ thủ cấp mới cho vào thành.
Thông qua ba sự kiện này, quan viên thành Tuyên Phủ đã đạt được nhận thức chúng, tính cách của khâm sai Thẩm đại nhân như thạch tín trộn với tỏi, vừa cay vừa độc. Nhưng không dám thừa nhận mà thôi.
- Mọi người không nói ta cũng biết các vị có oán trách ta.
Thẩm Mặc giơ tay lên, ngăn cản bọn họ biện giải, mỉm cười nói:
- Nhưng mọi người có thể nghe ngóng xem, khi ta ở Tô Châu và Bắc Kinh, nổi tiếng là dễ tĩnh, chưa bao giờ quát nạt cãi vã với đồng liêu, chưa bao giờ chặn đường tiến thân của một ai.
Y ve cằm hồi tưởng:
- Mọi người tặng ta một cái ngoại hiệu là "phúc khí tới", ý tứ là ai theo ta làm quan, ngày lành của người đó đã tới, thăng quan phát tài đã trong tầm tay.
Mọi người nghe thế thì lòng máy động, bọn họ láng máng nghe ra được, Thẩm Mặc đang nói:" Đi theo ta, có thịt ăn", nhưng càng nghe ra ý cảnh cáo trong đó của y. Nhưng không nghe ra trong đó ý cảnh cáo nhiều hơn, hay lôi kéo nhiều hơn, nên không ai dám tùy tiện lên tiếng, đều nhìn sang Trần phủ đài, người có trí tuệ nhất, hi vọng ông ta thăm dò được ý tứ.
Trần Phi Đức không đùn việc cho ai, hỏi:
- Đại nhân, ý của ngài là tình hình lần này rất đặc thù?
Ông ta đúng là thông minh, hỏi từ góc độ này là để lại đủ đường tiến lui.
- Đúng thế.
Thẩm Mặc nhìn ông ta tán thưởng, khẽ gật đầu:
- Đừng có thấy Thẩm Mặc ta diễu võ dương oai, tưởng chừng như là có bản lĩnh lắm, nhưng thực tế ta chẳng qua chỉ làm theo lệnh mà thôi. Còn các vị đại nhân sở dĩ chọn ta làm chức khâm sai này, chỉ vì ta có thể lĩnh hội ý bên trên, không làm công việc này bị biến dạng.
Trần Phi Đức cẩn thận hỏi lại:
- Ý đại nhân là.. Vị đại nhân kia, sẽ đổi người ạ?
Câu hỏi thẳng thừng như vậy làm mọi người mở to mắt, muốn xem xem Thẩm Mặc trả lời như thế nào.
Thẩm Mặc cười ha hả, cố làm ra vẻ thần bí:
- Mây mờ không che hết quanh năm, đông qua xuân tới hoa nở rộ. Thời cuộc biến đối, không phải những nhân vật nhỏ như chúng ta có thể tác động vào được.
Làm quan càng lớn, miệng y càng chặt, nói mỗi một câu đều tựa như đang ám thị điều gì đó, nhưng nếu kẻ nào muốn bới móc lời của y giở trò thì không thể nào.
Không để cho bọn họ có thời gian suy nghĩ kỹ hơn, Thẩm Mặc trầm giọng xuống, ní:
- Chư vị, tướng biên cương không hỏi tới chuyện nội các. Nhưng bản quan có thể nói một cách rõ ràng cho các vị, cùng với phần thắng ở chiến trường đông nam ngả về phía triều đình, trọng tâm chiến lược chỉnh thế sẽ chuyển sang phía tây bắc. Tình hình hiện tại là triều đình đã tích lũy được kinh nghiệm và tự tin ở đông nam, nhìn thấy tướng lĩnh phương nam vốn kém xa phương bắc, cũng có thể đánh thắng được quân đội mạnh mẽ hơn, nên hoàn toàn cho rằng, phương bắc không thể tồi tệ như thế, không thể kém cả phương nam được.
Y vung mạnh tay, giọng nói cứ cao dần:
- Cho nên bên trên từ hoàng thượng nội các, dưới tới binh bộ, khoa đạo. Tất cả mọi người đều đạt thành nhận thức chung, phải ra sức chỉnh đốn cửu biên.
So với tranh đấu trong nội các thì thứ liên quan tới lợi ích sát sườn càng khiến mọi người ở đây chú ý hơn, nghe lời Thẩm Mặc nói, bọn họ đều chìm vào trầm tư.
- Dương Thuận, Lộ Giai thậm chí còn có nhân vật lớn hơn nữa bị tra xét, chính là để tế cờ cho đại kế của cửu biên.
Thẩm Mặc tiếp tục cao giọng nói:
- Từ nay về sau, bất kỳ kẻ nào sợ chiến đấu, giết dân giả công, bỏ bê huấn luyện, chưa đánh đã chạy, sẽ bị xử trí nghiêm khắc nhất.
Y quét mắt qua mặt nọi người, gằn giọng nói:
- Nếu như các ngươi không triệt để hối cải, vẫn muốn học theo hai tên Dương Lộ, vậy nói không chừng bản quan lại phải tới đây thêm một chuyến nữa.
Tất cả vội vàng thế thốt, đảm bảo không phụ sự kỳ vọng của Thẩm đại nhân, sẽ luyện quân cho tốt, đánh trận cho thật tốt v... v.. v...
Dù sao đây cũng là yến tiệc mừng công, thể nào cũng phải chuyển sang chủ đề nhẹ nhàng thoải mái, Thẩm Mặc liền tươi cười nói:
- Có điều mọi người không cần phải quá khẩn trương, dù sao chúng ta đã từng kề vai chến đấu, tình nghĩa thâm hậu bày ra đó, ta sẽ cố gắng chiếu cố cho mọi người.
- Đa tạ đại nhân.
Mọi người sao chẳng hiểu ý, đồng loạt đứng dậy thi lễ:
- Chúng tôi nhất định không phụ sự kỳ vọng của đại nhân.
- Được được, hôm nay chúng ta uống rượu mừng công, ngày sau còn dài để mọi người thể hiện tài năng.
Mọi người biết lãnh đạo đã phát biển xong, liền lần lượt tới chúc rượu, Thẩm Mặc thì biết muốn làm cho người phương Bắc phục thì nhất định không thể chùn bước trên bàn tiệc. May mà y cũng lăn lộn "rượu trường", bất kể bọn họ bày trò gì, đều thoải mái nhận lời hết. Điều này làm ấn tượng của văn võ Tuyên Phủ đối với y thay đổi lớn, thầm nghĩ:" Tửu phẩm như nhân phẩm, xem ra Thẩm đại nhân mặc dù nhiều tâm kế, ra tay tàn nhẫn, nhưng quy cho cùng vẫn là người chân thành."
Thẩm Mặc sảng khoái làm mọi người dần dần bớt đi câu này, bắt đầu chúc rượu lẫn nhau, chén qua lời lại, khung cảnh hết sức nào nhiệt.
Lúc này có một viên tiểu lại đi tới, ghé vào tai Trần Phi Đức thì thầm vài câu, Trần Phi Đức gật gù, bảo hắn lui xuống, rồi bẩm báo với Thẩm Mặc:
- Đại nhân, thôi lão suất lĩnh danh sĩ tấn thân trong thành, tới chúc mừng góp vui.
- Hoan nghênh, hoan nghênh.
Thẩm Mặc cười giục:
- Mau mau thêm bàn.
Trần Phi Đức gật đầu đáp:
- Hạ quan đi an bài ngay.
Song bị Thẩm Mặc gọi lại:
- Để người khác đi làm, chúng ta ra ngoài nghênh tiếp.
- Ha ha, để hạ quan thay mặt đại nhân nghênh đón là được rồi.
Trần Phi Đức vội nói.
- Ta cứ đi một chuyến thì hơn.
Thẩm Mặc lắc đầu.
Quả nhiên được y đích thân nghênh tiếp, đám người Thôi lão cực kỳ kinh ngạc, thậm chí có một người hốt hoảng, cuống quít nói:
- Ngài là khâm sai, ai dám để đại nhân nghênh tiếp chứ?
Thẩm Mặc chắp tay nói:
- Thôi lão đức cao vọng trọng, sao lại không xứng?
- Lão hủ thiếu lễ số, thiếu lễ số rồi.
Thôi lão vội trả lễ.
- Tôn lão kính lão mới là lễ số.
Thẩm Mặc cười đỡ Thôi lão dậy:
- Huống hồ, bản quan còn phải cám ơn ngài nhiều nữa cơ mà.
Thôi lão bấy giờ mới không chối từ nữa, trong miệng vẫn luôn mồm "không dám", được Thẩm Mặc dìu vào trong phòng khách, ngồi sát bên y.
- Ngôi xuống cả đi.
Thẩm Mặc chào mời các quan viên thân sĩ khác:
- Hôm nay không phải là Hồng Môn yến mà là tiệc mừng công của Tuyên Phủ chúng ta, mọi người không cần phải câu nệ.
Phàm là người tham gia bữa dạ yến hôm đó, ai cũng hiểu ý cười lớn, tạ ơn khâm sai đại nhân, rồi vào chỗ ngồi xuống.
Đợi mọi người ngồi cả rồi, Thôi lão nói với Thẩm Mặc:
- Hôm nay hay tin mừng, dưới sự lãnh đạo anh minh của đại nhân, quân ta hát vang khúc khải hoàn, đánh tan Mông Cổ Hoàng Thai Cát ngoài thành, sau đó thẳng tiến truy kích, đại phá doanh trại địch, chém giết thu hoạch vô số, sáng tạo ra đại thắng bao năm chưa có.
Rồi chuyển sang nhìn bậc sĩ thân tới cùng:
- Đám già cả chúng tôi mặc dù không lên chiến trường được, nhưng tấm lòng cũng như các tướng sĩ. Nghe nói chúng ta đánh thắng trận, chúng tôi cao hứng lắm, vì thế bàn tính với nhau chuẩn bị chút lễ mọn, mạo muội tới mừng đại nhân và chư vị tướng quân ! Mong đại nhân không chê.
Trung niên nam nhân theo sau ông ta liền dùng hai tay dâng lên danh sách quà mừng với Thẩm Mặc.
Thẩm Mặc mở ra xem, trừ một khoản ngân lượng không nhỏ ra, còn có rất nhiều rượu thịt, dầu mỡ, chăn đệm, chính là những thứ binh sĩ phổ thông cần nhất, không kìm được niềm vui từ tận đáy lòng:
- Thôi lão vất vả rồi, hạ quan thay mặt tướng sĩ tạ ơn ngài.
Nếu như lễ vật ông ta chuẩn bị, ngoại trừ vàng bạc châu báu ra, thì là lụa là gấm vóc sẽ khó tranh khỏi bị văn võ bá quan phia chia, binh sĩ hạ tầng chẳng có được một cái gì.
Nhưng hiện giờ trừ ngân lượng dành cho quan viên, thì toàn là rượu thịt chăn đệm cho binh sĩ bình thường, làm đám quan viên kia không thể tham ô, mới có khả năng phân chia tới tay quan viên phía dưới ở mức cao nhất có thể.
Một chiêu âm thầm kín đảo này nhưng lại làm ấn tượng của Thẩm Mặc với ông ta cải thiện đáng kể, thầm nghĩ:" Lão già này không phải là hạng chỉ biết kiếm chác lợi lộc."
Tiệc vui vẫn tiếp tục, uống tới mức độ nhất định thì tới lúc chơi bời.
Đám tấn thân mang tới đoàn kịch, biểu diễn ca kịch ở trong phòng khách, chiêng trống rộn ràng, kèn sáo du dương, đào hát trẻ trung tươi ngon thi thoảng lại ném xuống cái nhìn quyến rũ, khiến cho đám háo sắc miệng khô cổ khát, lòng dạ nôn nao.
Nếu như đã là khao quân thì tất nhiên không thể để các công thần nhìn xuông được, đám tấn thân còn mời một số cô em đẹp nhất lẳng lơ nhất thành Tuyên Phủ, tới rót rượu nói cưới với bọn họ. Đương nhiên, có kẻ không kìm lòng được, vờ say rượu ôm ấp xoa bóp chơi đùa gì đó thì các nàng cũng không từ chối.
Xã hội thời đó là như thế, cái chuyện tụ tập quần dâm chẳng có gì mà xấu hổ mất mặt, ngược lại vì các bậc sĩ đại phu cũng tham gia chẳng kém cạnh gì ai, cho nên nó được tô điểm thành "phong lưu nhã sự".
Bất kể là phương nam hay phương bắc, bất kể là đô thành hay biên cương đều là như thế. Khi người nhìn thấy ngay cả Thôi lão bảy tám chục tuổi đầu mà cũng say sưa "gặm mút" một cô bé tươi non tới chảy nước thì sẽ hiểu rằng, trong con mắt của người thời đó, đây chẳng qua là một mục hoạt động xã hội thôi, chẳng cần phải coi là chuyện to tát gì.
Thứ tốt nhất tất nhiên phải dành cho nhân vật to nhất, hai nữ tử kiều diễm ướt át, vóc dáng cao ráo nóng bỏng, một trái một phải dựa sát vào người Thẩm Mặc, nói muốn châm rượu cho y.
Nam nhân trẻ tuổi tuấn tú, mà lại chức cao quyền lớn như thế, đúng là khắc tinh của nữ tử chốn phong trần, hai ả kỹ nữ thường ngày cũng chẳng phải là giữ gìn gì, thỏ thẻ bắt chuyện với Thẩm Mặc, muốn ăn tươi nuốt sống y.
Điều này làm Thẩm Mặc vốn không ưa nữ nhân lẳng lơ rất phản cảm, khéo léo đẩy tay hai nữ tử ra, nói:
- Bản quan đi thay áo.
Nói xong nhìn Thôi lão, ông ta mỉm cười gật đầu với y.
- Tiểu nữ hầu hạ đại nhân.
Hai ả còn muốn theo sát y không rời, nhưng bị Tam Xích ngăn lại:
- Đại nhân nhà ta chưa có lệnh, không kẻ nào được phép tới gần.
Hai ả chỉ đành lui về bàn tiệc ngồi đợi.
Thẩm Mặc thở ra một hơi dài thoải mái, không quay về vội mà đi tới phòng nghỉ bên cạnh, trong đó có thắp đèn, có đốt lò than, có một lão già họ Thôi ngồi đó từ trước.
Thẩm Mặc khoát tay, ý bảo ông ta không cần đứng dậy, liền đi tới ngồi xuống bên cạnh, cười tỏ ý áy náy:
- Bị người Mông Cổ quấy rầy, không có thời gian tới nhà bái phỏng, đành ở đây nói chuyện với ngài, mong Thôi lão rộng lòng tha thứ.
- Thẩm đại nhân khách khí quá.
Thôi lão cười khà khà:
- Ngài có thể thu xếp công việc bỏ thời gian ra gặp là lão hủ đã mừng lắm rồi.
Lúc này Tam Xích tới dâng trà, sau đó lui ra, đóng cửa lại, nhường không gian cho hai vị đại nhân giao lưu.
Trong phòng không có người ngoài, Thôi lão cũng không còn cái bộ dạng già cả lẫn cẫn, ông ta hồ đồ là cho kẻ hồ đồ xem, còn nói chuyện với người thông minh, tốt nhất là đừng có đóng giả làm gì. Thôi lão cười nói:
- Vương Học Phủ và Trương Tử Duy đánh giá về đại nhân là cực cao, nói đại nhân nhất định sẽ thành một trong mười vị cực phẩm nhân thần của lịch sử Đại Minh.
Học Phủ là tên chữ của Vương Sùng Cố, còn Tử Duy là tên chữ của Vương Tứ Duy.
Đánh giá này rất cao rồi, Thẩm Mặc cầm chén trà lên, nhấp một ngụm, nói:
- Hai vị lão huynh chẳng qua là cùng cộng sự với vãn bối cho nên mới nói vài câu tốt đẹp thôi.
- Kha kha, lời của bọn họ đại nhân có thể không tin, nhưng lời của Dương Ngu Pha thì thế nào ngài cũng sẽ tin chứ?
Ngu Pha là hiệu của Dương Bác, Dương Bác và Vương Sùng Cố là thông gia, Trương Tứ Duy là cháu họ ngoại của Vương Sùng Cố, mà Thôi lão Thôi Tú Sơn lại là biểu huynh của Dương Bác, mặc dù đây chỉ là một góc tảng băng Tấn đảng, nhưng có thể nói rõ ràng, ông già này lợi dụng đủ các loại quan hệ thân thích, kiến lập lên một tập đoàn chính trị không thể phá vỡ...
Như thế mặc dù mở rộng không nhanh bằng, thanh thế không mạnh bằng Bằng đảng, nhưng hơn ở chỗ quan hệ chắc chắn, phối hợp ăn ý. Chính là phương trâm âm thầm mà vững mạnh của Tấn Thương đang tung hoành Lương Hoài và Tuyên Đại.
Thẩm Mặc có thể tiếp cận với những người này, là nhớ vào Từ Giai liên lạc, ông ta gửi thẳng cho Dương Bác một phong thư, đại ý là:" Nếu ông còn muốn làm rùa rụt đầu thì chuyến này đám con cháu của ông gặp tai ương theo Dương Thuận hết." Dương Bác sau khi cân nhắc tình thế, mới viết thư cho Thôi Tú Sơn Dương Phủ, để ông ta phối hợp với Thẩm Mặc.
Có câu thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa, nếu như không có Tấn Thương phối hợp, Thẩm Mặc không thể hạ bệ hai tên Dương Lộ thuận lợi như thế, không thể chén ép được hai tên khâm sai Chu Đồ như thế.
Nhưng tất cả đều là mật mưu âm tiến hành âm thầm, bề ngoài nhìn thế nào cũng không ra được, bởi vì Thẩm Mặc không có bất kỳ phối hợp nào với Tấn đảng, thậm chí còn phát sinh xung đột.
Chỉ có người hiểu nội tình, hiểu Tấn đảng mới biết, ông già này mặc dù luôn kín đáo, nhưng là kim giấu trong gối, lần này chỉ có gối mà không có kim, là sự phối hợp cực lớn với Thẩm Mặc.
Lò than cháy lách tách, Thẩm Mặc bắt đầu câu chuyện trước:
- Dương công có khỏe không?
Từ Giai nới với y, vị tên Dương Bác chưa bao giờ gặp mặt kia là hạch tâm, là linh hồn là kẻ chỉ huy của Tấn đảng, cần phải cẩn thận đối đãi.
Thôi Tú Sơn gật đầu:
- Đừng coi thường ông ấy năm nay đã 60, nhưng vẫn có thể giương cung ba thạch, múa được thiết trượng trăm cân, thế lực so với thời trẻ còn tốt hơn ấy chứ.
Thẩm Mặc biết đó chỉ là những lời rải đường cho chuyện phía sau, tiến thêm một bước:
- Dương công sắp phục chức rồi phải không?
- Khà khà, làm phiền đại nhân quan tâm.
Thôi Tú Sơn gật đầu:
- Tới tháng hai năm sau, không tính tháng nhuận thì cũng tròn hai mươi bảy tháng rồi.
- Nói thế thì chẳng mấy chốc là tới rồi.
Thẩm Mặc trầm ngâm.
- Đúng thế.
Thôi Tú Sơn thấy y không lên tiếng, đành vờ vịt nói đùa:
- Tới khi đó còn nhờ đại nhân nói giúp cho vài câu với Cao bộ đường.
Trong khoảng thời gian Thẩm Mặc rời kinh, Phùng Thiên Ngự vì "thô bỉ" mà bị đàn hặc rớt đài, nhưng Gia Tĩnh đế không cho Nghiêm đảng được toại nguyện là trả vị trí thiên quan cho bọn chúng, song cũng không cấp cho người Từ đảng, mà trực tiếp nâng Cao Củng lên, để ông ta dùng chức lại bộ thị lang lĩnh nhiệm vụ thượng thư. Tức là chỉ tạm thời thay quyền, nên không cần phải qua đình thôi, còn về "tạm thời" bao lâu thì phải nhìn tâm tình của Gia Tĩnh đế. Người sáng mắt đều nhìn ra, lần này hoàng đế quyết không để vị trí lại bộ thượng thư rơi vào tranh đoạt của hai đảng nữa, ai cũng bảo Cao Củng vớ bở.
+++
*** Lão Tây Nhi tức là người Sơn Tây, nguyên nhân là do vị trí địa lý, thứ nữa người Sơn Tây thích ăn dấm, mà dấm thì... thì thôi, cứ biết là gọi người Sơn Tây là đc rồi
Chương 610: Lời tạm biệtThẩm Mặc bật cười:
- Thôi lão nói đùa rồi, trọng thần có trong lòng hoàng đế như Dương công, giờ lại là lúc dùng người, đoán chừng hoàng thượng đã để ghế trống đề chờ rồi.
- Đâu có, đâu có...
Thôi Tú Sơn im lặng chốc lát rồi, quyết định vào thẳng đề:
- Nghe nói hoàng thượng đã thương lượng với Từ các lão an bài chức vị cho Dương công?
- Hình như nghe nói hoặc là tổng đốc tam biên, hoặc là binh bộ thượng thư. Các lão cũng bảo vãn bối hỏi ý tứ Dương công.
- Ý của ông ấy rất rõ ràng.
Thôi Tú Sơn không vòng vo nữa:
- Làm tổng đốc tam biên, không làm chức binh bộ thượng thư vứt đi kia.
Đại Minh ban đầu có chín tòa biên trấn, về sau thiết lập hai trấn nữa là mười một. Mười một trấn đều có tuần phủ, trên tuần phủ đặt ba tổng đốc, là Tây bắc tam biên tổng đốc, Đông bắc Kế Liêu tổng đốc, với cả Tuyên đại tổng đốc ở nơi này. Ba vị tổng đốc biên quan này nắm đại quyền quân chính, cùng thủ vệ biên giới dài của Đại Minh.
Tổng đốc Tuyên Đại quản Tuyên Phủ, Đại Đồng và Sơn Tây, ba địa phương này là sao huyệt của người Sơn Tây, tất nhiên không thể để người Sơn Tây lãnh đạo, nếu không tới khi đó nghe Bắc Kinh hay là nghe Thái Nguyên?
Huống hồ với sự am hiểu của Dương Bác với Gia Tĩnh, cho dù cho ông ta làm chức tổng đốc Tuyên Đại ông ta cũng chẳng làm, suốt ngày bị hoàng đế nhòm ngó vào, là chuyện khủng khiếp nhường nào.
Như cái kiểu thời đại này, người nông dân mua đồ, đại đa số là phải nhận đồ trước trả tiền sau, Thẩm Mặc và Thôi Tú Sơn gặp mặt, cũng là Từ đảng và Tấn đảng thu tiền sau, tới khi trả nợ.
Từ đảng dựa vào Tấn đảng giành được một thắng lợi vô cùng quan trọng, đồng thời cũng phải bỏ ra một cái giá rất đắt đỏ. Từ Dương Bác được chọn một trong hai vị trí tổng đốc tam biên và binh bộ thượng thư ra, Tấn đảng muốn đưa Vương Sùng Cố từ tuần phủ Sơn Đông sang tuần phủ Phúc Kiến, đưa Trương Tứ Duy từ tri phủ Hán Trung Thiểm Tây sang tri phủ Ninh Ba Chiết Giang, cùng với ba quan viên địa phương khác, chuyển từ phía bắc sang vùng ven biển, trong đó có hai tri phủ, năm tri huyện.
Yêu cầu điều động mười người này, thể hiển trọn vẹn phong phạm Lão Tây Nhi của Tấn đảng.
Thực dụng là số một, bọn họ không yêu cầu bất kỳ chức vụ nào trong triều, tới ngay cả Dương Bác đức cao vọng trọng cũng bỏ binh bộ lựa chọn tam biên, không muốn xen vào đấu tranh trong triều.
Thứ hai, phát tài là quan trọng, nhìn thấy sau khi mở cấm biển, bạc trắng cuồn cuộn từ hải ngoại chảy vào. Người Sơn Tây đã chiếm cứ lợi nhuộn buôn muối Hoài Dương và mậu dịch phương bắc, lại vươn xúc tua tới ven biển phương nam. Mặc dù né tránh hàng cấm của Thẩm Mặc và Từ các lão là Nam Trực Đãi, nhưng ra sức bố cục ở Chiết Giang Phúc Kiến Quảng Đông.
Đám gia hỏa tài kinh doanh hơn người một bậc này hiển nhiên ý thức được cùng với việc Tô Tùng vì mậu dịch mà vươn lên đứng đầu thiên hạ, các tình duyên hải đông nam có vị trí địa lý ưu viện hơn, lịch sử mậu dịch trên biển lâu đời hơn tất nhiên sẽ lần lượt yêu cầu bỏ cấm biển, chia một chén canh trong nổi lớn đó.
Với Thẩm Mặc mà nói, tất nhiên là không muốn Tấn đảng Tấn thương nhúng tay vào phương nam, nhưng chuyện này chưa tới lượt y quyết định.
Trong thư Từ Giai viết cho Dươc Bác, đã đồng ý cấp cho ông ta hạn ngạch điều động mười quan viên, cho nên dù Thẩm Mặc càm thấy xót của, nhưng vẫn khảng khái nhận lời.
Thấy tất cả mọi yêu cầu đã được thỏa mãn, Thôi lão hết sức cao hứng, mân mê ria mép nói:
- Người Sơn Tây chúng tôi vĩnh viễn là bằng hữu của đại nhân, cũng xin nhờ đại nhân chuyển báo cho Từ các lão, sau này có chuyện gì cứ thông báo một tiếng, dù lên núi đao biển lửa, chúng tôi cũng không ngại ngần.
- Vãn bối sẽ chuyển lời.
Thẩm Mặc nói xong đứng dậy:
- Chúng ta ra ngoài khá lâu rồi, phải quay về thôi.
Thôi Tú Sơn chống gậy trúc chầm chậm đứng dây, rồi nhớ ra chuyện gì, cười nói:
- Xem cái trí nhớ của lão hủ này, còn có một phần lễ nhỏ cho đại nhân, chỉ là chút tâm ý không đủ biểu đạt thành kính, mong đại nhân thu nhận.
Nói xong nhẹ nhàng lấy từ trong ống tay áo một phong thư, đặt lên trên bàn rồi ung dung rời đi.
Vì tránh nghi ngờ, Thẩm Mặc không theo Thôi Tú Sơn ra cùng, mà ngồi xuống bên lò than, ước lượng phong thư kia hồi lâu, thầm nghĩ:" Sao lại nặng như thế, chỗ này phải bao nhiêu ngân phiếu nhỉ?" Lúc này mới xé phong bì ra, móc thứ bên trong, nhưng không phải là ngân phiếu như trong tưởng tượng, mà là một thứ dạng khế ước.
Mở ra xem là cổ phần của "hiệu hối đoái Nhật Thăng Long". Thẩm Mặc hết sức quen thuộc với hiệu hối đoái này, trước kia Nhược Hạm chỉnh hợp hiệu đổi tiền hiệu cầm đồ Tô Châu, sáng lập ra "Hối Liên". Thương nhân Sơn Tây của Hoài Dương đã muốn bỏ số tiền lớn ra mua lại "Hối Liên", nhưng bị Nhược Hạm kiên quyết từ chối.
Cùng với việc làm ăn của Hối Liên triển khai ngày càng thịnh vượng, một tiền trang tên là Nhật Thăng Long cũng treo biển chen vào nghề này.
Bất kể là phạm vi kinh doanh, phương thức phục vụ, hoàn toàn giống hệt với Hối Liên, hơn nữa do bát đại Tấn thương liên hợp đảm bảo.
Dựa vào sức ảnh hưởng của Tấn thương từ Trường Giang lên phía bắc, chuyện kinh doanh Nhật Thăng Long như mặt trời đang lên, cùng Hối Liên phân chia nam bắt, ít nhất bề ngoài không phân biết được cao thấp nữa.
Thân phận bề ngoài của Thôi Tú Sơn chính là "đông gia tọa trấn" của Nhật Thăng Long ở một dài Tuyên Đại. Phân hiệu ở phủ thành bình thường, đều có chưởng quầy tổng phụ trách, chỉ có năm nơi quan trọng nhất như kinh thành, Dương Châu, Thái Nguyên, Tế Nam, Tuyên Đại mới có "đông gia tọa trấn", giám sát chỉ đạo, mời chào khách hàng.
Hiện giờ Thôi Tú Sơn lấy ra 0.5% cổ phần của Nhật Thăng Long, tuyệt đối có thể coi là khoản tiền lớn, cho dù là tính toán theo giá thấp nhất, cũng tới 30 vạn lạng bạc trắng, hơn nữa mỗi năm còn chia phần trăm, con cháu hưởng phúc. Đương nhiên tiền đề là chuyện làm ăn Nhật Thăng Long vĩnh viễn hưng thịnh.
- Lão Tây Nhi này tính toán thâm quá nhỉ.
Thẩm Mặc đưa khế ước cho Tam Xích nói:
- Xem ra muốn dẫn quân kéo về Giang Nam rồi, cho nên mới cấp cho ta số cổ phần này. Cho rằng ta vì phát tài, sẽ không làm khó bọn họ.
Chỉ cần Nhật Thăng Long ăn nên làm ra, thứ này sẽ tiếp tục tăng giá. Nếu như làm ăn không tốt, thứ này mất giá, thậm chí không đáng một xu. Cho nên Thôi Tú Sơn mới nghĩ, sau này cạnh tranh với Hối Liên, Thẩm Mặc sẽ không giúp đỡ bên nào, chia đều chén canh.
Tam Xích thu khế ước lại, cười hăng hắc:
- Xem ra bọn họ cho rằng đại nhân chỉ chiếm cổ phần trong Hối Liên thôi.
Thẩm Mặc cũng cười, đột nhiên nói:
- Chuyện này đừng cho phu nhân biết.
Tam Xích ngẩn ra:
- Cái cổ phần này ấy ạ?
- Ừ.
Thẩm Mặc gật đầu, hơi chột dạ nói:
- Ngươi nhận lấy, tới khi đó trực tiếp mở tài khoản của ngươi, hoa hồng cũng để ở Nhật Thăng Long, đừng để phu nhân biết.
- Ồ...
Tam Xích vỡ lẽ:
- Đại nhân muốn lập quỹ đen.
- Chết đi.
Thẩm Mặc trợn mắt:
- Cái này.. Cái này gọi là tài chính cơ động, thỏ khôn đào ba hang, hiểu không?
- Dạ hiểu.
Tam Xích thầm nghĩ:" Là quỹ đen rõ rành rành còn gì?" Lo lắng trùng trùng hỏi:
- Nếu đại nhân thành cổ đông của bọn họ, có phải là sẽ nói đỡ cho bọn họ không?
- Ngu như chó.
Thẩm Mặc mắng:
- Nếu ta dám giúp bọn họ, sợ là ngay cửa nhà cũng không bước qua được.
Rồi hạ thấp giọng xuống:
- Đây gọi là tương kế tựu kế, tương lai ngươi sẽ hiểu.
Tiệc tàn người tan, Thẩm Mặc cũng tới lúc về kinh rồi, nhưng trước khi lên đường, y thong thả tới cứ điểm Cẩm Y Vệ, được Niên Vĩnh Khang tháp tùng, vào hậu viện, rồi một mình đi vào trong một tiểu viện nhỏ riêng biệt.
Lúc này tuyết ngừng rơi trời trong, bóng mờ mới tan, cha con Thẩm Luyện chính đang cầm chổi trúc, chăm chỉ quét tuyết.
Bởi vì hai cha con họ bị hoàng đế xử phạt, cho nên phải đợi đặc xá mới có lại được tự do, điều Thẩm Mặc có thể làm được chỉ là tận lực cải thiện hoàn cảnh sinh sống của bọn họ.
Thấy Thẩm Mặc đi vào, Thẩm Cổn cung kính hành lễ:
- Thẩm đại nhân.
Thẩm Mặc cười xấu hổ nói:
- Sư huynh gọi đệ là sư đệ đi.
Rồi hướng về phía Thẩm Luyện thi lễ:
- Sư phụ.
Thẩm Luyện gật đầu, nói:
- Vào trong phòng nói chuyện.
Thẩm Mặc nói với Thẩm Cổn và Niên Vĩnh Khang:
- Vào cả đi.
Nhưng Thẩm Luyện lại bảo:
- Các ngươi đợi ở ngoài.
Thẩm Mặc đành đi vào phòng một mình, đối diện với vị sư phụ vỡ lòng của mình, vị quan nhân sát phạt quyết đoán này phảng phất quay trở về năm xưa theo học trong tộc học, nìn thở tập trung tinh thần, ngồi ngay ngắn.
Len lén nhìn Thẩm Luyện, thấy ông dường như già đi rất nhiều, mặc dù sống lưng vẫn thẳng, nhưng mái tóc đã hoa râm hết cả, quan trọng nhất là vẻ căm đời hận thế thường thường mang trên mặt đã không còn thấy đâu nữa.
- Sư phụ...
Thấy Thẩm Luyện cũng đang nhìn mình, Thẩm Mặc khẽ gọi một tiếng:
- Người phải chịu khổ rồi.
Thẩm Luyện lắc đầu cười:
- Ta có học sinh tốt như thế là có phúc lớn ấy chứ.
Thẩm Mặc thở dài nói:
- Để sư phụ phải sống ở chốn khổ cực này sáu năm trời, học sinh hổ thẹn vô cùng. Đợi chuyện này qua đi, học sinh lập tức phái người tới, đón sư phụ về Thiệu Hưng.
- Con sai rồi, vi sư ở Bảo An châu sáu năm, an cư lạc nghiệp, vui vẻ vô cùng.
Thẩm Luyện cười:
- Ta cũng không định chuyển chỗ ở nữa, cả đời này sẽ ở lại Bảo An châu.
- Sư phụ, người có điều gì khó xử sao? Vậy cứ nói với học sinh là được.
- Làm gì có, đừng suy nghĩ quá nhiều, có cơ hội con tới Bảo An châu mà xem, nơi đó non xanh nước biếc, trời cao may mỏng, cất giọng ca vang, sao chẳng khoái lạc.
Thẩm Luyện mỉm cười:
- So với phương nam ngập ngụa son phấn, thối hoắc mùi tiền, ta thấy nơi này hợp với mình hơn.
- Nhưng mà hai vị sư huynh thì sao? Còn cả tiểu sư đệ thì sao? Bọn họ sẽ phải làm như thế nào?
Thẩm Mặc hỏi liên tiếp:
Vào thời đại đó chỉ có về nguyên quan mới được tham gia thi cử, đương nhiên tới tầng cấp như Thẩm Mặc, có thể lợi dụng sơ hở chế độ hộ tịch, để khảo sinh tham gia khoa cử ở nơi khác.
Nhưng với tính cách của Thẩm Luyện, ông tuyệt đối sẽ không cho phép. Cho nên Thẩm Cổn và Thẩm Bao tương lai hoặc là không tham gia khoa cử, hoặc là phải về Thiệu Hưng ứng thí, nơi đó chất lượng giáo dục hơn ở Tuyên Đại trăm lần, nếu như ở đây đọc sách chỉ về thi thì sợ là ngay cả tú tài cũng chẳng đỗ nổi.
- Bọn nó à, muốn đi đâu cũng được, làm cái gì cũng được. Chỉ có một việc, con cháu Thẩm Luyện ta không được làm quan. Cho nên có về nguyên quan hay không chẳng sao cả.
- Không được làm quan?
Thẩm Mặc giật mình:
- Vì sao?
- Chuyện này..
Thẩm Luyện đương nhiên không thể nói rằng:" Ta thấy làm thanh quan quá khổ, làm quan tốt quá mệt, làm tham quan mất mặt tổ tiên, làm ác quan khó tránh khỏi cái chết, nghĩ đi nghĩ lại, làm quan không phải là công việc vừa an thân lại có thể yên tâm, làm không khéo là thân bại danh liệt, con cháu vạ lây."
Dù sao thì Thẩm Mặc đang làm quan.
Thẩm Luyện cười xấu hổ, nói lảng đi:
- Chuyết Ngôn, con đã làm quá nhiều vì vi sư rồi, từ nay về sau không cần lo cho ta nữa, ta cũng sẽ không gây phiền phức cho con nữa.
- Sư phụ, người nói cái gì thế? Ân tình của người, học sinh có trả cả đời không hết.
Thẩm Mặc chân thành nói.
- Làm quan cho tốt, làm nhiều việc có lợi cho dân cho nước, thì đó là sự báo đáp tốt nhất cho vi sư rồi.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Học sinh chỉ là tế tửu Quốc tử giám thôi, có muốn làm việc gì cũng chẳng có cơ hội.
Thẩm Luyện trầm giọng:
- Nghiêm đảng sắp thất thể rồi.
- Hả? Sao sư phụ biết.
Thẩm Mặc thầm nghĩ:" Chẳng lẽ đã thành bí mật ai ai cũng biết?"
- Tiểu tử thối, xem thường ta hả?
Thẩm Luyện cười mắng, khôi phục lại thần thái năm nào:
- Nghiêm đảng muốn giết ta, con lại có thể cứu được ta, còn có thể hạ luôn được tổng đốc Tuyên Đại của Nghiêm đảng, đây chẳng phải là hiện tượng quá rõ ràng à. Chẳng lẽ chưa đủ nói lên vấn đề à?
- Sư phụ anh minh. Nghiêm đảng thực sự sắp toi đời rồi.
Sắc mặt Thẩm Luyện trầm xuống, hỏi:
- Từ Giai nói với con ra sao?
Thẩm Mặc suy nghĩ một lát, quyết định nói thật:
- Ông ấy bảo học sinh, Nghiêm đảng mặc không tới mức lập tức tiêu vong, nhưng mặt trời lặn xuống sông đã là thế cục không tránh khỏi, con có thể lựa thời mà làm một số việc rồi.
Ngừng một chút y bổ xung:
- Ông ta nói chuẩn bị đưa con tới Tế Nam, làm tuần phủ Sơn Đông một nhiệm kỳ, rèn luyện kinh nghiệm một chút... Ông ta bảo con còn quá trẻ, ở vị trí cao không phải là chuyện hay ho gì. Sư phụ thấy thế nào?
- Hiện giờ điểm yếu nhất của con đúng là quá trẻ, 25 tuổi đã thành quan lớn tứ phẩm, đó là may mắn của con, cũng là bất hạnh của con.
Thẩm Luyện vuốt râu nhìn Thẩm Mặc, thong thả hỏi:
- Vi sao là may mắn thì không cần phải nói, còn vì sao nói là bất hạnh, con hiểu không?
Thẩm Mặc khẽ lắc đầu, mặc dù không phải là y hoàn toàn không biết, nhưng y thích nghe Thẩm Luyện dạy dỗ, Thẩm Luyện lên tiếng:
- Bình thường mà nói, người làm tới quan tứ phẩm, xung quanh tập trung một đoàn người, đó là thứ người ta hay gọi là thế lực, phải có thế lực nhất định, cái thể lực này do đủ các loại người tạo thành. Có thể là quan lớn hơn hắn, cũng có thể là quan nhỏ hơn hắn, cũng có thể là người suốt ngày gặp mặt hắn, cũng có thể là chẳng có dính dáng gì tới nhau. Một người có thế lực mới có thể thuận lợi mọi bề, mới có thể làm nên được đại nghiệp.
Thẩm Mặc gật gù, mặt lộ vẻ trầm tư, nghe Thẩm Luyện dạy bảo:
- Chẳng lẽ con không phát hiện ra, bên cạnh mình ngoài trừ đồng hương hảo hữu, trừ tiến sĩ đồng bảng ra thì rất khó quy tụ người khác. Tất cả mọi người đều khách khí với con, thậm chí là cung kính với con, nhưng không chịu có giao tình sâu hơn, thậm chí càng không giới thiệu con vào vòng thế lực của bọn họ, phải không?
Sắc mặt Thẩm Mặc trở nên nặng nề, chầm chậm gật đầu:
- Sư phụ nói không sai... Con tự hỏi mình rất biết trân trọng thanh danh, đối đãi với mọi người chân thành, tiêu pha hào phóng, chưa bao giờ so đo tính toán, cũng không đắc tội với đồng liêu. Nhưng khi đưa ra thiện ý luôn nhận được câu trả lời tiêu cực, nhất là đám Khoa đạo Ngôn quan tựa hồ rất không muốn quan hệ với con... Trừ các huynh đệ đồng niên đồng khoa ra, thì có quan hệ thân thiết với con toàn là đạo sĩ, thái giám rồi đặc vụ, còn quan viên triều đình lại chẳng được mấy.
Điều này làm Thẩm Mặc hết sức thất vọng:
- Lấy chuyện mấy tháng trước mà nói, Nghiêm đảng ra tay với con, không chỉ chẳng có ai giúp đỡ, lại còn đua nhau ném đá xuống giếng, thiếu chút nữa là xong đời... Xin sư phụ giải bến mê cho học sinh.
Thẩm Luyện an ủi:
- Nếu như hiện giờ không phải là con 25 tuổi mà là 52 tuổi, ngồi ở vị trí tương tự, gặp phải chuyện tương tự, cho dù không có hoàng thượng bảo hộ, cũng có khả năng hóa nguy thành an... Có câu một hàng rào có ba cọc chống, một hảo hán có ba người giúp. Người ta luôn có người giúp đỡ trong triều, con thì lại chẳng có, đương nhiên là chịu thiệt thòi.
Ông thở dài:
- Biết làm sao được, người trên đời này toàn chuyện không công bằng, vào cái tuổi của con, đáng lẽ ra là chẳng ai hay biết, làm nhân vật nhỏ bưng trà rót nước trong nha môn, chờ đợi cơ hội. Nhưng hiện giờ danh tiếng vang khắp thiên hạ, quan tước lại cao, làm người ta cả đời không theo kịp, tuyệt đại đa số quan viên mà nói, điều này quá bất công.
Thẩm Luyển chỉ Thẩm Mặc cười ha hả:
- Cho nên người ta không thích con là có lý cả đấy. Bất kể người ta ghét con thể nào, đối phó với con thể nào, con đều phải chấp nhận, phải tập thành quen.
Thẩm Mặc im lặng chốc lát, rồi hỏi:
- Vậy sư phụ bảo học sinh phải làm sao bây giờ.
- Một chữ thôi, chịu... Cứ chịu dần dần, nhưng không phải là chịu đựng một cách hồ đồ, mà phải dùng tâm trí mà chịu, chuyên tâm mà chịu, tính mọi kế mà chịu, có thế mới có thể vượt qua được, mới có thể vươn lên, làm nên đại sự.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Nói như thế là sư phụ đồng ý để con tới Sơn Đông?
- Sai.
Thẩm Luyện lắc đầu:
- Muốn con rèn luyện và đưa ra ngoài là hai chuyện hoàn toàn khác nhau... Chẳng lẽ ở Bắc Kinh không rèn luyện được à?
- Nếu như ở Bắc Kinh, tiến thêm một bước sẽ là thị lang, thực sự quá bắt mắt.
- Vì sao cứ nhất định phải tiến lên? Nhớ kỹ mục tiêu của con là thủ phụ nọi các, vì mục tiêu lâu dài này, cho dù tạm thời nhẫn nại, đình trệ, hoặc là thụt lùi đều có thể chấp nhận được.
- Ý của sư phụ là?
- Nghĩ cách kiêm nhiệm học sĩ hàn lâm.
Thẩm Luyện phất tay lên, chỉ bảo cho học trò cưng:
- Nếu như Viên Vĩ không chịu cho, con cũng phải kiếm lấy cái chức thị độc học sĩ, dạy dỗ thứ cát sĩ, ổn định lại tâm, chuyên tâm dạy học hai khóa, đủ cho con hưởng lợi suốt đời.
Ông ta cười khoái chí:
- Sáu năm sau, đồng niên đồng hương của con cũng đã thăng lên trên ngũ phẩm rồi, học sinh của con cũng bắt đầu cắm rễ vào trong triều, nền móng của con cũng trở nên vững chắc, tuổi tác không trở nên quá nổi bật, có thể mưu đồ nhập các, rồi tiếp tục... Chịu đựng.
Nói tới đây chính ông ta cũng hơi nhụt chí:
- Nội các không xét năng lực, mà xét tư cách, con nhập các sau người ta một ngày, là phải xếp sau người ta, phải đợi người phía trước nghỉ hưu hết mới lên được.
- Có điều con không cần phải quá nản chí.
Thấy Thẩm Mặc mặt mày méo xẹo, Thẩm Luyện cười:
- Địa vị ở bên trong nội các phải xem ai có quan hệ tốt với hoàng đế, ai có cảnh hưởng trong bách quan, ai có bản linh cao hơn người, nếu như lợi hại, đi sau mà tới trước cũng không phải là không thể.
- Hì hì, tới khi đó hãy nói, học sinh cứ nhập các trước rồi tính tiếp.
Thẩm Mặc rót cho sư phụ một chén trà:
- Như vậy tới Sơn Đông có gì không tốt?
Từ đáy lòng mà nói, y muốn ra ngoài hơn, làm phong cương, làm tỉnh trưởng, có được quyền lực mà y khát vọng, làm một số chuyện mà trong mơ y muốn làm.
- Tới địa phương tất nhiên là không tệ, nếu như mục tiêu của con chỉ vẻn vẹn là tạo phúc mọt phương mà thôi...
Thẩm Luyện nhìn hắn đầy thâm ý:
- Nhưng nếu như con muốn nhập các, muốn thành thủ phủ thì tuyệt đối không được ra ngoài.
Ông ta bực bội phất tay:
- Tóm lại ở chuyện này, Từ Giai làm việc quá bất nghĩa, ông ta muốn con đã bị thiệt thòi mà còn phải cảm kích ông ta.
- Vì sao ạ?
Điều này chưa có một ai nói với y, Thẩm Mặc kinh ngạc hỏi.
- Vậy ta hỏi con, thủ phụ nội các bao đời, có một ai xuất thân bố chính sứ, tuần phủ, hay là xuất thân tổng đốc không?
Thẩm Luyện hỏi lại.
Từ khi thành tổ thiết lập chế độ nội các cho tới nay đã 160 năm, Đại Minh tổng cộng có 44 đời thủ phụ, bỏ đi những lần bãi quan, mấy lần phục chức, còn cả người đổi tên, tổng cộng có 32 người.
Lại trừ đi những người làm được vài tháng đã rớt đài, có thể thực sự ngồi vững trên vị trí này, chỉ có 19 người.
Trong 19 người này, trừ Trương Thông cũng chính là Trương Phu Kính ra, những người khác đều xuất thân hàn lâm, trong đó Giải Tấn, Hồ Quảng, Dương Vinh, Dương Sĩ Kỳ đều từ từ thần, được vị trí đó dễ dàng nhất.
*** Từ thần: Chỉ viên quan văn học, như làm trong hàn lâm.
Tiếp đó không còn người đột nhiên thăng chức nữa, hoặc là thăng tiến từng bước, hoặc là có con đường khác, hoặc là vận may tốt thái quá. Tiến từng bước có Tào Nãi, Từ Phổ, Lưu Kiện, Lý Đông Dương, Lương Ninh, Phí Hoành, Lý Thời, Hạ Ngôn, Nghiêm Tung, đều là từ lục bộ và hàn lâm nhập các.
Lý Hiền có công dẹp loạn, lấy chức thái tế được thác cô tiến vị. Trần Văn Thị là quan địa phương chức vị cao nhất trong những người này: Vân Nam hữu bố chính sứ, tiếp theo đó làm chiên sự Chiêm sự phủ, lễ bộ thượng thư và nhập các.
Lưu Cát mặc dù tiếng tâm cực tệ, người ta gọi là "Lưu gối bông" càng đàn hặc quan càng lớn, từng bước từng bước từ lục bộ đi lên tới nội các.
Người đi theo con đường khác như Từ Hữu Trinh phất lên từ biến cố Đoạt Môn, Trương Thông, Phương Hiến Phu lên từ đại lễ nghị, Vạn An là cháu Vạn quý phi, Hướng Hiến Tông hiến dâm dược đột nhiên thăng chức vì thế được mỹ "rửa trym tướng công".
Còn Bành Thời Thương Lộ xuất thân trạng nguyên vì biến cố Thổ Mộc Bảo và Đoạt Môn, hai vị gặp họa hóa phúc, cơ duyên trùng hợp, là vận may cực độ mà người ta không thể bắt chước được.
Nhưng bất kể như thế nào thì cũng chưa có một vị nào làm phong cương một phương, làm chức vụ từ tả bố chính sứ trở lên. Nghĩ tới đây, Thẩm Mặc lắc đầu:
- Không có, tất cả đều từ kinh quan, nhiều lắm thì cũng là khi tuổi trẻ tới địa phương rèn luyện, làm đốc học, án sát phó sư, hữu bố chính sứ, tới cấp độ đó là quay về kinh.
Lại bổ xung:
- Cho dù có ngoại lệ như hạng Dương Nhất Thanh cũng tại vị được vài tháng là cúi đầu rút lui... Điều này hiển nhiên không phải là trùng hợp mà là tồn tại nguyên nhân nào đó bên trong.
- Điều này không có gì mà khó hiểu, kinh quan có đường của kinh quan, ngoại quan có lối của ngoại quan, mặc dù lúc ban đầu có giao cắt nhau, nhưng cùng với thời gian càng đi con đường càng xa nhau, khoảng cách với đối phương các lúc càng lớn, cuối cùng thành hai đường lối hoàn toàn khác nhau, thành khoảng cách không vượt qua. Nguyên nhân sâu xa trong đó là câu gọi là cường long không áp được địa đầu xà. Thủ phụ nội các là kinh quan, do các kinh quan khác tuyển ra, sau đó được hoàng đế đồng ý, sau đó được sự ủng hộ của bọn họ mới làm một cách vững chắc ổn định, làm ra được chút việc thực tế.
Thẩm Luyện nhìn Thẩm Mặc thật sâu:
- Vì đạt được tất cả những điều này, con phải gây dựng sự nghiệp tại Bắc Kinh! Thi triển tài hoa ở kinh thành, để hoàng đế luôn có ấn tượng tốt với con, chải chuốt tốt các mối quan hệ các phương diện, cố gắng có được đồng minh và người ủng hộ nhiều nhất có thể. Binh pháp có câu, thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa. Con ở Bắc Kinh là chiếm địa lợi, để hoàng đế và bách quan đều ủng hộ con là nhân hòa, thế còn lo gì đại sự không thành.
Thẩm Mặc nhận giáo huấn, khom người nói:
- Học sinh hiểu ý sư phụ rồi.
- Con nghe lọt được những lời này là tốt lắm.
Thẩm Luyện cười vui mừng:
- Có điều cũng không cần phải quá ủ rũ, khi con tích lũy đủ mối quan hệ và tư cách để nhập các, hãy nghĩ tới làm chút việc thực sự cho phía dưới, lấy thân phận các lão thân lâm, hiển nhiên không chuyện gì không thuận lợi, tới khi đó tiến thoái tự nhiên, tùy cơ ứng biến, chẳng phải là khoan khoái sao?
Trong mắt sư phụ, học sinh mãi mãi là đứa trẻ không lớn, Thẩm Luyện vỗ về:
- Làm cho tốt vào, vi sư dám đánh cược với con, thế nào con cũng có một ngày lên chức tể tướng.
- Đa tạ lời lành của sư phụ, con sẽ làm thật tốt.
- Ừ.
Thẩm Luyện đứng dậy:
- Lần này chia tay, không biết bao giờ mới có thể gặp lại, ta cũng chẳng có cái gì để tặng con làm kỷ niệm, chỉ có thể tặng con một lời khuyến cáo, coi như lễ vật chia tay vậy.
- Học sinh rửa tai lắng nghe.
Thẩm Mặc cung kính nói.
- Phạm sai lầm không đáng sợ, nhưng sợ là biết sai mà không sửa, mà thường thường người nắm quyền càng cao thì càng dễ phạm vào sai lầm này.
Thẩm Luyện nói đầy thâm ý:
- Hiện giờ con còn nghe vào những lời của ta, hoặc ít hoặc nhiều là vì con còn chưa đủ cường đại. Nếu như tương lai con quyền cao chức trọng rồi, ngàn vạn lần phải nhớ kỹ, tai họa chân chính không tới từ đối thủ hoặc là kẻ địch, mà là từ sự ngạo mạn và tự đại của bản thân, sai lại thêm sai, cuối cùng tạo thành đại họa không thể cứu vãn, nhớ kỹ lấy.
- Học sinh thụ giáo.
Hai sư đồ nói chuyện xong từ trong phòng đi ra, Thẩm Luyện bảo:
- Ta vẫn là người mang tội, không thể ra ngoài tiễn con được, chúng ta tạm biệt ở đây đi.
Thẩm Mặc nhìn sư phụ, đột nhiên ý thức được, trên đời này sẽ không còn người nào dốc hết lòng hết dạ ủng hộ mình như thế nữa, nước mắt không kìm được chảy ra, vén vạt áo, quỳ thẳng xuống đất, giọng nghèn nghẹn:
- Học sinh bái biệt sư phụ.
Rồi quỳ trên đất tuyết dập đầu ba cái, Thẩm Cổn vội vàng đỡ y lên, Thẩm Mặc cứ quyến luyến quay đầu mãi mới chịu đi.
Khi quay lại dịch quán, vẻ "trẻ nhỏ dễ dạy" trên mặt Thẩm Mặc đã hoàn toàn tan biến, thay vào đó là khí độ ung cần phải có của một vị khâm sai đại nhân, liền thấy Trần Phi Đức vội vàng lên đón, khom người nói:
- Đại nhân, thế là ngài đã về, kinh thành có người tới, tìm khắp thành không thấy ngài đâu.
- Ai thế?
Thẩm Mặc hỏi nhỏ.
- Là Mã công công...
Trần Phi Đức còn chưa nói hết câu thì nghe thấy một giọng nói chói tai mà kéo dài:
- Chu choa, Thẩm đại nhân, cuối cùng ngài đã lộ diện rồi.
Thẩm Mặc ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên thấy Mã Toàn sắc mặt mỏi mệt đang đứng ở cửa đại sảnh cười với mình.
Thẩm Mặc đáp lễ:
- Cơn gió nào thổi công công tới đây thế?
Chương 611: Khải hoàn.- Đương nhiên là hoàng thượng phái đi làm việc rồi.
Mã Toàn chắp tay cười tươi roi rói:
- Chúc mừng Thẩm đại nhân khai kỳ đắc thắng, sáng lập ra đại thắng nhiều năm chưa có ở cửu biên.
- Ồ, có thánh dụ sao?
Thẩm Mặc làm động tác quỳ bái.
- Không cần không cần.
Mã Toàn vội vàng ngăn y lại:
- Bởi vì trước khi nhập thành sẽ có nghi thức khải hoàn, hoàng thượng phái nô gia tới báo cho đại nhân biết trước, tránh cho đó gây nên trò cười.
- Vậy làm phiền công công rồi.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Tất cả xin nghe công công an bài.
- Vậy bao giờ chúng ta có thể xuất phát.
- Bao giờ cũng được, công công không nghỉ một hai ngày sao?
Thẩm Mặc quan tâm hỏi.
- Thời gian không đợi người mà.
Mã Toàn lắc đầu cười khổ:
- Nghi thức định vào ngày 29, chúng ta không thể chậm trễ được.
- Vậy thì ngày mai xuất phát.
Thẩm Mặc nghe theo.
Bởi vì Gia Tĩnh có chỉ dụ, tướng sĩ có công cùng vào kinh nhận ban thưởng, cho nên hơn ba trăm quan binh từ Hình Ngọc trở xuống, cùng đội ngũ của Thẩm khâm sai áp giải xe tù của Dương Thuận và Lộ Giai, một nghìn thủ cấp của người Mông Cổ, một trăm xe chiến lợi phẩm, cùng với mấy nghìn thớt chiến mã, rầm rầm rộ rộ xuất phát hướng về phía thành Bắc Kinh...
Thẩm Mặc vốn định để chiến mã lại, nhưng Mã Toàn kiên trì muốn mang theo, nói như vậy mới thể hiện được thanh thế. Thẩm Mặc nói từ trước là tất cả nghe hắn an bài, cho nên không phản đối, còn Trần Phi Đức lại hết sức chú tâm tới việc này, đặc phái một nghìn binh sĩ chuyên môn đi theo chăm ngựa.
Chẳng bao lâu đã tới ngày 29 tháng Chạp, tục ngữ nói ngày 29 hấp xủi cảo, tức là nói vào ngày này người dân phải ở nhà làm bánh ăn năm mới rồi, bận không dứt ra được, thường thì không ra ngoài. Nhưng hôm nay thì già trẻ của tứ cửu thành lại dậy thật sớm, gọi bạn kéo bè, dìu già dẫn trẻ ra ngoài.
Thuận Thiên phủ sớm đã phát ra cáo thị, nói Thẩm Trạng Nguyên ở Tuyên Phủ chỉ huy quân đội, đánh cho chủ lực Yêm Đáp tới xâm phạm một đòn đau. Giết địch mấy nghìn, đạp bằng doanh trại địch, làm trọng thương thái tử Hoàng Thai Cát của Yêm Đáp, thu giữ vô số chiến mã quân dụng của người Mông Cổ, làm địch trên đường bị lạnh kẻ thương kẻ chết tới mấy nghìn nữa.
Người dân kinh thành hưng phấn vô cùng, tuyệt đối cao hơn gấp mấy lần so với việc nghe được đông nam giết được bao nhiêu giặc Oa, tây nam bình đình được bao nhiêu man di.
Bởi vì đông nam cũng được, tây nam cũng thế, đều cách Bắc Kinh quá xa, cho dù là thắng hay bại, đều giống như nghe thuyết thư vậy, mặc dù cũng kích động, nhưng cảm xúc không sâu, bởi vì không cảm nhận được cái đau cắt thịt.
Còn người Mông Cổ thì hàng năm liên tục vào cướp bóc, còn xâm nhập tới tận kinh đô, đốt phá cướp bóc, rất nhiều nhà có người thân bị chết hoặc bị bắt bởi Thát Đát, có thể nói là mắt thấy tai nghe, cảm nhận sâu sắc.
Không may quân đội Đại Minh quá kém cỏi, từ sau biến cố Thổ Mộc Bảo, làm ba đại doanh của Thành tổ gia bại sạch sẽ, liền liên tiếp bị người Mông Cổ áp đảo. Sĩ khí càng đánh càng thấp, càng đánh càng không biết đánh, kết quả để người ta mặc sức chà đạp, để người ta tới lui thoải mái.
Điều này với người dân kinh thành tự cho là đệ nhất thiên hạ sao chịu đựng nổi? Khuất nhục như muốn phát điên.
Đối với triều đình, đối với hoàng đế mà nói, lại chẳng phải như thế sao?
Hiện giờ cuối cùng cũng có được một trận đại thắng cho ra hồn, có cơ hội để phát tiết tâm tình đó, cho dù có hơi chuyện bé xé ra to, cũng phải chúc mừng thật long trọng.
Vừa vặn đúng vào ngày trước năm mới, đó gọi là tới sớm không bằng tới khéo. Tri để khơi lên nhiệt tình của bách tính, thế là vạn nhà trống người, toàn bộ chạy hết ra ngoài cổng thành.
Thường ngày trước Phụ Thành Môn, dòng xe vận chuyển than không ngớt đã dừng lại, thay vào đó là đám đông quần chúng chen vai thích cách, tới ngay cả chỗ gần bên thành cũng vây kín vòng trong vòng ngoài, nhìn không thấy đâu là điểm tận cùng. Đám đông kéo dài tới hơn mười dặm.
Binh sĩ Kinh doanh mặc giáp mới tinh, tay cầm trường thương tua đỏ, canh gác nghiêm ngặt, đem đường đi và người dân tách ra. Còn có cả binh sĩ phủ Thuận Thiên cũng mặc y phục mới tinh, tay cầm roi da xích sắt, kẻ nào mù mắt dám bước vào quan đạo nửa bước là ăn ngay một trận roi, nếu như còn dám lộn xộn, là trực tiếp xích lại mang đi.
Tới đúng giờ Thìn (7-9am), ở phía quan đạo đằng xa, đột nhiên vang lên ba tiếng pháo lớn, tiếp đó là tù và cùng thổi vang, khúc khải hoàn tấu lên, tiế ngay theo đó là tiếng chuông trên Chung Cổ Lâu, các chùa miếu đạo quán cũng đồng loạt hưởng ưng, gõ chuông gõ khanh, tiếp đó nữa là tiếng pháo rộn ràng, đất trời thoáng chấp tràn ngập không khí chào mừng.
Mọi người nhón chân, nghển cổ nhìn về phía tây bắc, chỉ thấy trên được lớn bụi đất bốc cao, rồi có mấy chục lá cở đủ mọi màu sắc rực rỡ, xuất hiện ở đường chân trời.
- Tới rồi, tới rồi.
Đám đông reo hò hoan hô, sóng người bắt đầu tràn về phía trước, đẩy cho hàng binh sĩ méo mó, quan sai vung roi quất túi bụi cũng không có tác dụng gì.
Đối ngũ khải hoàn cuối cùng đã xuất hiện, đi ở phía trên cùng chính là 500 ngự lâm quân giáp vàng ngựa trắng, đó là đại hán cao lớn vạm vỡ được lựa chọn tỉ mỉ, là đội nghi trượng trong quân.
Năm mươi kỵ binh đầu tiên tay cầm các loại cờ xí, tiếp theo đó 450 người cầm các loại hồng đăng, hoàng đăng, búa phủ giáo mác, làm người ta nhìn hoa cả mắt.
Đó là đội mở đường cho đội ngũ khải hoàn đằng sau.
Tiếp theo đội nghi trượng mới là đội ngũ tiến kinh nhận thưởng, Trấn Sóc tướng quân Hình Ngọc người mặc Sơn Văn giáp tổ truyền, vai khoác áo choàng đỏ tươi, cưỡi hàn huyết bả mã màu đỏ, giơ cao một lá cờ lớn ba trượng, ưỡn ngực ngẩng cao đầu đi trước, cả đời hắn chưa bao giờ uy phong như thế.
Lá cờ đó có hàng chữ lớn to như cái đấu "Đại Minh khâm mệnh chiêu thảo sứ Thẩm"! Cái danh xưng này kỳ thực xong việc rồi mới ban cho, Thẩm Mặc chẳng khoái gì, y cảm thấy như thế là vơ công vào người, nhưng mọi người đều cho rằng hết sức đương nhiên.
Theo lối tư duy của thời đó, đánh trận tốt là do quan văn lãnh đạo đúng đắn, đánh không tốt là do võ tướng hèn yếu vô dụng, hoàn toàn chẳng có lý lẽ gì mà nói.
Thẩm Mặc mặc dù không thể thay đổi quyết định này nhưng y cảm thấy hết sức thiếu tự nhiên, không mặc khôi giáp, chỉ mặc bộ quan bào bình thường, mặc trầm như nước, dưới sự dẫn đường của cờ xí và quan quân bao quanh, trời bên ngoài Phụ Thành Môn.
Vào thời khắc này ngàn vạn người tranh nhau nhìn ngắm y, hoa tươi rượu lễ, nhìn theo vái tạ. Mỗi bước y đi, đều khơi lên tiếng reo vang, tiếng hỏi han, thậm chí là có người quỳ xuống vái lạy. Khung cảnh này không phải là vinh diệu bình thường, y chưa bao giờ được cảm thụ qua, cho dù là năm xưa trúng liền Lục Nguyên, đi trên ngự đạo cũng kém xa ngày hôm nay.
Nhưng Thẩm Mặc cảm thấy chẳng vinh dự bằng một nửa chuyện đi trên ngự đạo năm xưa, bởi vì lần đó là y dựa vào bản lĩnh thực sự của mình có được, còn lần này...
Y nhìn phía trước, cờ quạt trời trời, nhìn hai bên, giáo mác sáng loáng, trong lòng không khỏi nổi lên cảm giác hoang đường, thầm nghĩ:" Chẳng qua là hoàng đế và triều đình cần một trận đại thắng, còn ta chỉ gặp đúng cơ hội mà thôi."
Cho nên y không kích động chút nào, cứ bình tĩnh như thế đi qua dòng người hoan hô. Nhưng người đời luôn thích tô điểm thẳng lợi, nhìn thấy Thẩm Mặc không mặc khôi giáp mà mặc quan phục, đều nói y là một viên nho tướng.
Nhìn thấy mặt Thẩm Mặc chẳng hề kích động, thiếu cả nụ cười, liền cho rằng y trầm ổn tỉnh táo, không kiêu căng ngạo mạn, có phong phạm đại tướng.