Thời tiết mùa xuân thất thường, nhiệt độ khi nóng khi lạnh.
Hôm qua còn gió lạnh phảng phất, đêm ngủ phải đắp chăn dày, hôm nay lại nắng vàng rực rỡ, ánh mặt trời gay gắt như chuyển sang mùa hạ.
Uông Tễ sáng nay ăn qua loa cái màn thầu rồi vác nông cụ ra đồng. Cuối cùng cũng có một ngày nắng, đất trồng rau nhà anh còn chưa khai hoang, nếu không tranh thủ thì sẽ lỡ mất tiết xuân phân.
Trong núi rộng đất thưa, trước kia mỗi nhà được chia nhiều đất trồng, Uông Tễ tự lượng sức, không định trồng hết. Anh chỉ chọn ba mảnh đất, dự tính trồng ít rau hẹ, xà lách và khoai tây trước, chờ đến tiết Thanh minh mới khai thêm hai mảnh nữa để trồng dưa và đậu.
Đất để lâu không canh tác, cỏ dại mọc um tùm. Uông Tễ cầm lưỡi hái, từng khóm một dọn sạch. Việc nhổ cỏ và dọn gốc rễ này ngốn mất của anh hơn hai giờ.
Đợi dọn xong mảnh cuối cùng, rửa tay sạch sẽ, anh cảm giác lưng mình như không còn là của mình nữa. Xem ra, mấy bài thể dục sáng vẫn chưa đủ để anh chống chọi với công việc nặng nhọc.
Anh vừa xoa xoa eo vừa nghĩ, tiếp theo là công việc lật đất, may mắn là công đoạn này có thể đứng làm, đỡ phải cúi lưng quá nhiều.
Đất trồng rau này vốn được chăm sóc từ trước, ít sỏi đá, nên việc lật đất cũng nhanh hơn. Trong khi làm, Uông Tễ còn bắt gặp vài con ấu trùng. Tiết kinh trập vừa qua, muôn loài cũng đã thức giấc dưới những trận mưa xuân đầu mùa.
Lật đất xong, anh rải thêm ít phân tro lên trên để cải thiện chất đất. Đây là kỹ thuật mới mà anh học từ một video nông nghiệp. Dù đã về quê trồng trọt, Uông Tễ vẫn chưa đủ can đảm để dùng phân chuồng.
Làm xong việc, anh tháo mũ rơm, định nghỉ ngơi một lát. Áo thun trên người đã ướt đẫm mồ hôi, anh dùng bao tay lau mặt, lòng bàn tay toàn mồ hôi nhễ nhại.
Hôm nay nhiệt độ lên cao bất thường, Uông Tễ dựa lưng vào gốc cây đỗ quyên bên bờ ruộng, uống nửa ly nước. Cổ anh ngứa ngáy khó chịu vì mồ hôi làm da bị kích ứng. Anh đưa tay cào cào cổ, phát hiện da đã ửng đỏ.
“Trồng trọt đâu phải chuyện dễ dàng…” Uông Tễ than nhẹ, nằm ngửa trên mặt đất, hai tay lót sau đầu. Ánh nắng mặt trời xuyên qua kẽ lá, rọi xuống thành từng tia lốm đốm. Anh nhắm mắt lại, khẽ cười: “Nhưng dù sao cũng đỡ hơn đi làm mệt đầu óc.”
Sau nhiều năm bị công việc chèn ép đến kiệt quệ, giờ đây anh thà để cơ thể mỏi mệt còn hơn tinh thần suy sụp.
Nằm nghỉ một lát, thấy người cũng đỡ mệt hơn, Uông Tễ đứng dậy, phủi bụi đất trên lưng, rồi cầm nông cụ trở về nhà. Đất đã được cày xới xong, mà theo dự báo thời tiết, chiều nay trời sẽ nhiều mây, chuyển mưa nhẹ. Lúc đó có thể tranh thủ gieo rau hẹ và rau xà lách, thêm chút mưa thì càng dễ nảy mầm.
Từ ruộng rau về nhà phải băng qua một đoạn đường xi măng. Uông Tễ leo qua mấy bậc dốc dựng đứng, đến khi bước lên đường lớn thì thấy một chiếc xe tải đang chạy lên núi.
Anh đứng nép qua một bên nhường đường, mắt dõi theo chiếc xe chạy khuất, rồi bất giác nhìn theo bóng xe một lúc lâu.
Nhà Uông Tễ nằm trên đỉnh núi, cao hơn nữa chỉ có nhà Phù Tô.
Kể từ bữa cơm hôm đó, quan hệ giữa anh và Phù Tô đã trở nên thân thiết hơn. Đôi khi dậy sớm tập thể dục, hai người tình cờ gặp nhau, cùng chạy bộ, trò chuyện dọc đường.
Cả hai đều là người trầm tính, nhưng ở gần nhau lại không thấy gượng gạo, dù có khi chẳng nói lời nào.
Khung cảnh trên núi yên tĩnh, khác hẳn sự náo nhiệt của thành phố. Ở đây phần lớn là người già và trung niên, có thêm một người bạn đồng trang lứa để trò chuyện, bỗng chốc trở thành điều dễ dàng cảm thấy thân thuộc.
Về đến nhà, việc đầu tiên Uông Tễ làm là lên lầu hai, tắm rửa sạch sẽ. Ánh nắng buổi sáng đã khiến cổ anh đỏ bừng cả một mảng. Mặc dù mặt nhờ đội mũ rơm nên không sao, nhưng phần cổ thì rát và ngứa. Nghĩ đến việc phải lên mạng đặt kem chống nắng, anh hơi ngao ngán. Còn vết sạm đen thì không đáng lo, chỉ sợ da bị phơi đến lột từng mảng, trông vừa kỳ quặc vừa kém sạch sẽ.
Thay một chiếc áo thun trắng và quần thể thao mới, anh xuống lầu, đi thẳng vào bếp. Lúc này cũng đã hơn mười một giờ, sắp đến giờ cơm trưa.
Buổi sáng, Uông Tễ ăn một chiếc màn thầu mà thím Uông tự hấp. Trước đây khi còn đi làm, căn tin công ty có một quầy bán đồ ăn Đông Bắc, sáng nào cũng có bánh nhân đậu hoặc màn thầu. Mỗi chiếc đều chắc nịch, nắm trong tay không biến dạng. Nhưng màn thầu ở đây thì khác, vừa mềm xốp, vừa ngọt nhẹ, ăn vào rất vừa miệng.
Ngon thì ngon, nhưng không mấy no.
Uông Tễ đã đào xới suốt buổi sáng, cái màn thầu ăn hồi sáng giờ cũng tiêu hóa sạch. Nhưng trời nắng gắt đến mức khiến anh kiệt sức, đứng trong bếp nhìn chằm chằm mấy món đồ mà chẳng có tâm trạng ăn uống gì.
Anh nghĩ bụng, hay là lên lầu ngủ một giấc, chờ khi trời mát hơn sẽ dậy nấu cơm. Đang định đi thì nghe thấy tiếng gõ cửa ngoài sân.
Ra ngoài xem, anh thấy Phù Tô đứng trước cổng. Người này cao lớn, bóng cây anh đào trong sân lả lướt rủ xuống bên cạnh hắn. Thấy Uông Tễ, Phù Tô khẽ giơ tay chào.
“Cửa không khóa, cứ vào đi.” Uông Tễ cười, nhường đường.
Phù Tô đẩy cửa bước vào, đưa cho Uông Tễ một túi đồ.
“Cho tôi?” Uông Tễ theo bản năng nhận lấy, mở túi ra nhìn và lập tức ngạc nhiên: “Anh mua trái cây này ở đâu thế?”
Ở quê, trái cây thường là nhà tự trồng hoặc hái trên núi. Mùa nào thức nấy, như mùa xuân thì có anh đào và quả hạnh, mùa hè là dưa hấu và đào, còn mùa đông lại có quả hồng. Đến mùa người dân ăn không hết, còn chẳng nghĩ đến chuyện bỏ tiền mua trái cây ngoài chợ.
Quê này thậm chí không có tiệm trái cây, chỉ có siêu thị nhỏ lác đác vài quả táo hay chuối. Những món này thường chỉ mua khi đi làm khách.
Thế nhưng trong túi của Phù Tô lại có thanh long, việt quất và một số loại trái cây lạ mắt, rõ ràng không phải ở quê có.
Chợt nhớ đến chiếc xe tải nhìn thấy lúc về nhà, Uông Tễ liền hỏi: “Là từ chiếc xe lúc nãy chuyển tới à?”
Phù Tô gật đầu.
“Ở đây không có những thứ này, chắc là gửi từ huyện thành?”
Phù Tô lại gật đầu, giải thích thêm hắn đã thỏa thuận với cửa hàng ở huyện, mỗi tuần chuyển trái cây và nguyên liệu nấu ăn, mỗi tháng thì gửi thêm các vật dụng cần thiết. Hắn sẽ thanh toán đầy đủ cả tiền hàng lẫn phí vận chuyển.
Nghe xong, Uông Tễ bật cười: “Anh cũng xa xỉ thật đấy. Tiền vận chuyển chắc còn ngang tiền hàng!”
Hắn chỉ tay về phía bộ bàn ghế gỗ gần đó: “Đừng đứng mãi, ngồi đi.”
Đặt túi trái cây lên bàn, ánh mắt Uông Tễ dừng lại ở họa tiết in trên túi. Nhìn qua đã thấy quen thuộc, vì trước đây khi còn làm việc ở thành phố, anh từng mua trái cây của cửa hàng này để đãi đồng nghiệp những ngày tăng ca. Tuy lương cao, nhưng Uông Tễ chẳng mấy khi tự mua trái cây ở đây cho mình.
Thấy Uông Tễ cứ nhìn chằm chằm chiếc túi, Phù Tô hỏi: “Không thích mấy loại này à?”
“Không phải không thích,” Uông Tễ lắc đầu, rồi thở dài thú nhận, “Chỉ là trái cây chỗ này đắt quá, anh lại mua nhiều như vậy.”
Thời tiết nóng nực, Phù Tô cuộn tay áo lên, bình thản đáp: “Cảm ơn cậu hôm trước mời cơm trưa, ăn ngon lắm.”
Cả hai đều không phải người hay khách sáo. Nghe vậy, Uông Tễ cũng không từ chối, chỉ cười đùa: “Anh mua trái cây thì cứ mua, nhưng tháng tới đừng đặt nữa, được không?”
Phù Tô hơi ngạc nhiên: “Sao thế?”
“Tháng năm này, anh đào trong sân nhà tôi chín, có thể ăn ngay.” Uông Tễ chỉ vào cây anh đào gần đó. “Sau núi cũng có mận chín ngọt lịm. Tháng sáu thì tới lượt quả hạnh, còn tháng bảy, tháng tám thì dưa hấu, đào, cái gì cũng sẵn. Trái cây tự nhiên trong núi ngon không kém ngoài tiệm, mà lại thơm, sạch. Anh tiết kiệm được cả đống tiền!”
Nói xong, anh bật cười: “Anh có thấy tôi keo kiệt quá không?”
“Không đâu.” Phù Tô cười chậm rãi, rồi gật đầu: “Thế tháng năm tôi sẽ không đặt nữa, qua ăn ké nhà cậu vậy.”
Uông Tễ phẩy tay hào sảng: “Không vấn đề, cứ để tôi lo!”
Uông Tễ nghe vậy cười cười, ánh mắt bất giác lướt qua cánh tay của Phù Tô, liền nghĩ đến lúc chạy bộ cùng hắn. Người như Phù Tô, dù ăn gì sống ở đâu, vẫn toát lên khí chất điềm tĩnh, sạch sẽ.
Hắn không phải kiểu người thích phô trương, nhưng sự kỹ lưỡng, cẩn thận lại thể hiện trong từng chi tiết. Dù chỉ là một cái áo sơ mi đơn giản, cũng được hắn mặc chỉnh chu mà thoải mái. Cái dáng vẻ kia, cứ như không chịu chút ảnh hưởng nào từ thời tiết oi bức.
Uông Tễ thầm nghĩ: Cái này mà làm khách mời trong chương trình sức khỏe hay dinh dưỡng, chắc chắn khối người tin sái cổ.
Để ngăn mình nhìn chằm chằm quá lâu, anh vội chuyển chủ đề: “Nhìn dáng người anh, chắc bình thường ăn nhiều mà không lo tăng cân nhỉ?”
Phù Tô ngẩng đầu, có chút bất ngờ nhưng không khó chịu, thản nhiên đáp: “Ăn nhiều nhưng tôi vận động cũng nhiều, chắc nhờ vậy mà giữ được cân nặng.”
“Thế thì tốt quá, tôi ăn ít hơn anh nhiều mà vẫn không thoát được lớp mỡ bụng này.” Uông Tễ vừa cười vừa tự vỗ vỗ bụng mình, tỏ vẻ bất lực.
Phù Tô nghe vậy liền nghiêng đầu nhìn anh, đôi mắt đen ánh lên chút ý cười nhẹ: “Chỉ cần kiên trì chạy bộ với tôi mỗi sáng, đảm bảo cậu sẽ thấy khác biệt.”
Uông Tễ cười hì hì, tựa như để xóa tan cái không khí hơi nghiêm túc: “Thôi, để tôi cân nhắc đã, tôi sợ chạy nhiều quá lại gầy đi, mất luôn chút phong độ này thì sao.”
Phù Tô cũng không nói thêm, chỉ nhướng mày tỏ ý “tùy cậu thôi.” Nhưng khóe miệng hắn khẽ cong lên, như thể nụ cười ấy chính là sự chấp nhận sự bướng bỉnh của Uông Tễ.
Nhìn cánh tay mình rồi nhìn sang cánh tay Phù Tô, anh thầm nghĩ: Hai đứa mình ăn cũng như nhau, chẳng lẽ tại mình vận động chưa đủ?
Thấy ánh mắt Uông Tễ, Phù Tô hỏi: “Sao vậy?”
Uông Tễ lắc lắc cánh tay mình: “Tôi đang nghĩ có khi nào mỗi sáng tôi nên chạy thêm hai vòng không. Nhìn so với anh mà thấy nản luôn đó.”
Phù Tô bật cười.
Uông Tễ tiếp lời: “Anh có phải mỗi sáng tập thêm gì nữa không? Sao mà luyện ra được vậy?”
Anh chỉ vào bắp tay cuồn cuộn của Phù Tô, vẻ mặt đầy ngưỡng mộ.
Phù Tô thật thà đáp: “Có lẽ tại ngày nào tôi cũng tưới cây, vận động cũng nhiều. Thỉnh thoảng mất ngủ thì tập nhẹ một chút.”
Phù Tô không kể hết với Uông Tễ rằng từ nhỏ hắn đã mê mấy môn vận động như cưỡi ngựa, leo núi, đấu kiếm, trượt tuyết… Hằng năm hắn vẫn duy trì tập luyện đều đặn, đôi lúc còn ở cường độ cao. Chỉ đến vài năm trước, khi tai có vấn đề, bị bác sĩ và ba mẹ khuyên can mãi, hắn mới miễn cưỡng từ bỏ.
“Nhà tôi có máy chạy bộ với tạ tay,” Phù Tô nói. “Nếu cậu muốn tập thì qua đó tập đi.”
Uông Tễ thấy hơi ngại, nhưng thật sự muốn qua xem thử nên gật đầu: “Chiều nay tôi ghé nhà anh coi thử. Với lại anh nhắc tưới cây, tôi cũng muốn tham quan vườn nhà anh từ lâu rồi.”
Phù Tô gật đầu: “Vậy tôi ở nhà đợi.”
Nói vài câu, Phù Tô rời đi trước. Uông Tễ ngồi hóng mát thêm chút rồi đứng dậy vào bếp chuẩn bị bữa trưa.
Dạo này anh không muốn ăn gì nhiều năng lượng. Lục tủ bếp, anh thấy trong nhà còn ít mộc nhĩ, cải thìa, rau chân vịt, với cả rổ cà rốt thím Uông mới cho hôm qua khi ghé nhà hái rau.
Cà rốt núi, củ nhỏ, chỉ cỡ bàn tay, nhưng ăn rất ngọt và giòn, màu cam cũng đậm hơn cà rốt thường.
Uông Tễ định làm món rau trộn. Lục thêm, anh tìm được ít miến khoai lang đỏ phấn. Đây là miến anh mua từ một gia đình dưới núi, loại làm thủ công hoàn toàn từ khoai lang đỏ, không pha bột sắn hay phụ gia gì.
Lần đó ghé mua miến, anh được gia đình đó mời ăn thử tô miến rau xanh. Miến giòn, dai, thơm mùi khoai lang, ngon đến nỗi ăn xong anh mua liền 12 cân, giữ lại 5 cân, còn 7 cân thì mang biếu chú thím Uông.
Để làm món rau trộn, Uông Tễ cắt cà rốt thành sợi rồi xào chín, luộc chín rau và miến, đánh thêm hai quả trứng gà chiên mỏng, cắt sợi. Tất cả cho vào tô lớn, thêm chút muối, xì dầu, dấm, với dầu mè ép từ hạt vừng.
Làm xong rau trộn, anh định lấy trái cây Phù Tô mang tới từ tủ lạnh thì sực nhớ trong nhà còn bột sương sáo. Uông Tễ nấu sương sáo, đổ vào hai hộp thủy tinh để trong tủ lạnh đông lại.
Trong lúc chờ sương sáo đông, anh bưng tô rau trộn ra sân ăn. Ăn xong, tranh thủ ngủ trưa một chút.
Tỉnh dậy, nhớ ra khu đất trồng rau, anh ra vườn gieo xà lách và hẹ, trồng thêm mấy củ khoai tây mầm. Làm xong, anh đắp đất rồi ngồi đợi cơn mưa để cây nảy mầm.
Về nhà, Uông Tễ rửa tay sạch sẽ, mở tủ lạnh lấy sương sáo đã đông cứng. Anh đổ ra, dùng ly cắt thành từng miếng tròn, thêm trái cây cắt nhỏ, rót sữa bò nguyên chất vào. Cách làm đơn giản hơn nấu bánh canh, chẳng cần vất vả nắn từng nếp gấp. Sương sáo cắt ra cuộn với trái cây là xong.
Sương sáo có bề mặt trong suốt, óng ánh như pha lê, bên trong là trái cây nhiều màu sắc rực rỡ. Sữa bò bên trên được rót khéo léo, tạo thành những đường lượn sóng mượt mà, thoạt nhìn giống như những chiếc bánh sủi cảo thủy tinh.
Uông Tễ dùng thìa múc thử một miếng nếm. Sương sáo trắng vốn không có vị gì, nhưng lại mang đến cảm giác thanh mát, mềm mịn. Kết hợp với vị ngọt nhẹ của trái cây và sữa bò, món này đúng chuẩn để ăn vào buổi trà chiều, vừa mát mẻ vừa không bị ngán.
Làm xong hai hộp, anh để lại một hộp trong tủ lạnh để ăn sau, còn hộp còn lại thì mang sang nhà Phù Tô.
Vừa tới nơi, Uông Tễ mới phát hiện nhà Phù Tô còn hoành tráng hơn những gì anh tưởng.
Chỉ mới đi dạo qua vườn hoa trong sân mà anh đã mất hơn hai mươi phút, thậm chí còn bị lạc trong mấy bụi hoa rậm rạp. Khi vòng ra sân sau và thấy chiếc xe việt dã màu đen đậu trong gara, anh không nhịn được thốt lên: “Xe này ngầu dữ!”
Khó có người đàn ông nào cưỡng lại sức hút của những cỗ máy với vẻ ngoài lạnh lùng và mạnh mẽ như vậy. Uông Tễ tò mò tiến lại gần, ngắm nghía một vòng.
Chiếc xe đã được độ lại, chỉ riêng chi phí độ cũng đủ để mua thêm một chiếc xe khác. Mặc dù bản gốc của nó không đắt như các siêu xe đình đám, nhưng Uông Tễ vẫn cảm thấy loại xe việt dã này rất “kén” người lái. Theo anh, để cầm lái một chiếc xe như vậy, người đó phải toát lên khí chất mạnh mẽ, thậm chí hơi ngầu. Phải là người cơ bắp hoặc phong trần, chứ nếu không sẽ bị cảm giác như không xứng với xe.
Mấy năm trước, khi mua xe, anh cũng đã từng mê mẩn dòng xe này, nhưng cuối cùng vẫn không dám chọn vì thấy mình chưa đủ khí chất để lái. Nghĩ đến cảnh bản thân ngồi trên chiếc xe mà cảm giác “lệch tông”, anh không khỏi bật cười.
Phù Tô đứng ở phía sau, im lặng nhìn anh. Uông Tễ ngẩng lên nhìn Phù Tô, lại liếc qua chiếc xe đen trước mặt, không khỏi thầm nghĩ: Anh ấy đúng là hợp với chiếc xe này.
Sau khi dạo quanh bên ngoài, hai người vào tham quan bên trong nhà. Ngôi nhà được xây theo kiểu truyền thống, với phòng khách thiết kế như một trung đường. Ngay giữa gian chính là bức họa lớn treo trên tường, bên dưới có treo đôi câu đối. Ở trung tâm là bàn bát tiên cùng hai ghế bành, trên bàn còn bày một bàn thờ với lư hương nghi ngút khói.
Hai bên trung đường là các phòng dành cho người lớn tuổi.
Phòng bếp ở tầng dưới, Uông Tễ cũng không để ý xem kỹ, trực tiếp theo Phù Tô bước lên tầng hai.
Khác hẳn với tầng một mang đậm phong cách cổ điển, tầng hai của Phù Tô hiện đại đến mức khó tin. Sàn nhà bằng gỗ đặc, xen kẽ những mảng nhấn bằng đá nhám và cẩm thạch. Đèn chiếu sáng tông ấm áp kết hợp với bộ sô pha tối màu tạo nên một không gian vừa sang trọng vừa ấm cúng.
Phía bên phải phòng khách, một khu bếp nhỏ mở hoàn toàn với đảo bếp được thiết kế gọn gàng. Uông Tễ đoán chắc Phù Tô hiếm khi dùng đến bếp, có lẽ chỉ dùng để pha cà phê hoặc nướng bánh là chính.
Điểm nổi bật nhất của phòng khách là bức tường kính cong toàn cảnh. Ngôi nhà nằm giữa rừng cây, nhưng từ cửa sổ có thể nhìn thẳng ra khung cảnh núi non bao la. Tất cả sắc màu xanh ngút ngàn của núi rừng hiện ra trong tầm mắt, không bị che khuất bởi bất kỳ thứ gì.
Uông Tễ bước ra ban công, đứng một lúc lâu, cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm hơn hẳn.
Hệ thống cửa kính không chỉ ở phòng khách mà còn kéo dài đến phòng ngủ. Uông Tễ đứng ngoài cửa phòng ngủ của Phù Tô, nhìn qua cửa sổ một lúc mới quay sang hỏi: “Anh ngủ mà không kéo rèm hả?”
Phù Tô gật đầu, giọng thoải mái: “Ừ, không kéo. Kéo rèm thì khác gì tự dưng bịt mắt mình đâu.”
Uông Tễ bật cười, cảm thấy lời này đúng là rất hợp với phong cách của Phù Tô.
Anh tiếp tục theo chân Phù Tô đi tham quan. Hắn mở một cánh cửa bên cạnh, bên trong là một phòng tập thể thao nhỏ được cải tạo từ phòng ngủ. Bên trong có máy chạy bộ và tạ tay, mấy thứ này Uông Tễ đã biết từ trước, nhưng không ngờ còn có cả một bộ khung tập đa năng.
Thấy anh ngạc nhiên, Phù Tô quay lại giải thích: “Thỉnh thoảng tôi mất ngủ, tập cái này thấy dễ ngủ hơn.”
Sau khi tham quan hết các phòng, hai người ra ban công ngồi trên chiếc ghế sô pha nhỏ. Lúc này Uông Tễ hoàn toàn hiểu ra: nếu anh chọn về quê để làm nông, thì Phù Tô rõ ràng đang tận hưởng một cuộc sống ẩn cư xa hoa.
Ánh mặt trời ban trưa thi thoảng bị che khuất bởi những đám mây trôi hờ hững. Xa xa, ngọn núi yên bình đứng vững, khiến không gian tĩnh lặng đến mức cả những bất an trong lòng dường như cũng bị dỗ dành, trở nên nhẹ nhàng hơn.
Uông Tễ và Phù Tô mỗi người ngồi một bên, thỉnh thoảng mới trao đổi vài câu ngắn.
Trên bàn trà giữa hai người là hai ly trà và hộp sương sáo mà Uông Tễ mang tới. Phù Tô thỉnh thoảng múc một miếng sương sáo lên ăn. Miếng sương sáo trắng mịn, không dính vào nhau, chỉ cần ấn nhẹ là nước sữa bò bên trong chảy ra. Tuy vậy, hắn vẫn ăn rất từ tốn, không hề để lại chút lộn xộn nào.
Thấy hắn im lặng ăn gần hết hộp, Uông Tễ bật cười hỏi: “Ăn được không?”
“Ngon lắm.” Phù Tô nói, đẩy hộp sương sáo về phía anh. “Ăn nhanh đi, tôi ăn hết bây giờ.”
“Cũng mang qua cho anh mà, anh cứ ăn đi.” Uông Tễ mỉm cười.
Ăn thêm hai miếng nữa, Phù Tô chợt hỏi: “Tôi có thể chụp lại được không?”
Uông Tễ bật cười: “Sao lần nào cũng ăn đến nửa hộp rồi mới nhớ chụp vậy?”
Phù Tô không trả lời, đứng dậy đi vào phòng khách lấy điện thoại. Một lát sau, hắn quay lại sân phơi, chọn góc, rồi đưa điện thoại lên chụp.
“Rắc.”
Trong khung hình, hộp pha lê đựng đầy những miếng sương sáo trong suốt, ngũ sắc của trái cây phản chiếu ánh sáng rực rỡ. Phía sau là không gian sân phơi rộng mở. Uông Tễ ngồi đối diện, không kịp tránh nên vô tình bị chụp vào một nửa khuôn mặt cùng nụ cười nhếch lên nơi khóe môi.
Hắn đang cười.
Trên màn hình điện thoại, ảnh chụp không thể hiện rõ. Nhưng khi đặt máy xuống và nhìn trực tiếp, nụ cười ấy lại vô cùng rõ ràng.
Nụ cười của anh dịu dàng như gió mát, phảng phất chút ẩm ướt của sương sớm. Trong khoảnh khắc đó, nụ cười ấy như hòa vào trời đất, thu hết vẻ đẹp của cảnh xuân vào trong đôi mắt.