Những lời này của Tư Đồ Thịnh vừa hợp tình vừa hợp lý, một lần nữa chạm đến tâm khảm của Tấn Nhân đế.
Nghĩa quân càng ngày càng lớn mạnh ở phương Bắc kia đúng là mối lo ngầm trong lòng bệ hạ.
Còn về việc Tấn triều thiếu binh ít tướng, ông cũng đã sớm nhận ra rồi nhưng chưa từng có ai có thể tổng kết thành sổ sách như vậy, tính toán tỉ mỉ cho ông xem.
Cứ vậy so sánh từ năm này đến năm khác, thật khiến người ta cảm thấy kinh hoàng, cũng vô cùng rúng động.
Tư Đồ Thịnh thấy bệ hạ không lên tiếng, hắn tiếp tục nói: "Quân Lý gia dũng mãnh thiện chiến, trong việc bình định thổ phỉ, phản loạn các nơi trước đây cũng có chiến tích không tầm thường. Nếu vì chuyện này mà tùy tiện vu oan cho quân Lý gia, để họ phải bước ra ngoài gánh tội, chẳng phải là đang làm nguội lòng tướng sĩ tam quân sao? Kẻ hành hung không phải Lý tướng quân và thuộc hạ của ngài ấy, nếu bệ hạ nghiêm trị, e là lại làm đúng ý của kẻ thật sự hạ thủ! Hơn nữa, lần này Lý Thành Nghĩa tướng quân đã trừng trị tên ác sứ Kinh quốc giữa phố xá, đây là thời cơ tốt để cổ vũ sĩ khí lòng dân!"
Còn về chuyện lo lắng Kinh quốc khai chiến, Tư Đồ Thịnh nghĩ đến lời Sở Lâm Lang nói với hắn ngày hôm đó.
Nàng nói chuyện đàm phán giữa hai nước này giống như mặc cả buôn bán trên thương trường, càng nhiều lời tranh cãi vô nghĩa, càng cho thấy đối phương có ý muốn thương lượng. Vậy nên không sợ đối phương quấy rối vô lý, chỉ sợ đối phương ngay cả thương lượng cũng không muốn.
Nghĩ vậy, hắn bình tĩnh tiếp tục: "Thể diện của nước lớn nhất định phải được duy trì. Sứ giả Kinh quốc không coi trọng lễ tiết, nhiều lần vi phạm quốc pháp Đại Tấn, còn hành hung ở dịch quán, g**t ch*t một ca cơ vô tội, hắn gây chuyện trên phố, đánh bị thương dân nữ và quan sai, có chết ngoài ý muốn cũng là do hắn tự chuốc lấy, bệ hạ có thể nói rõ với Kinh quốc, vụ án này vẫn đang điều tra, hung thủ chưa bắt về quy án nhưng các sứ giả khác của Kinh quốc không tôn trọng luật pháp Đại Tấn phải bị trục xuất. Nếu Kinh quốc muốn tiếp tục hòa đàm về chuyện mở thị trường, tốt nhất nên phái người hiểu lễ nghĩa đến."
Hoàng đế vừa nghe liền nhíu mày: "Như vậy chẳng phải là cho Kinh quốc có cái cớ để giao chiến sao?"
Tư Đồ Thịnh trả lời với vẻ trầm ổn: "Thần có bằng hữu thâm nhập Bắc địa, hiểu rõ phong tục dân tình nơi đó. Hắn dò la được một số nội tình mà thám tử biên tuyến trước đây không nghe ngóng được ra. Nghe nói năm nay một vùng cỏ rộng lớn ở Tây Bắc Kinh quốc xảy ra bệnh cỏ khô, cỏ xanh héo úa, trâu và dê đều không có thức ăn liền xảy ra chết đói hàng loạt. Nhưng tân Khả Hãn vì muốn ổn định lòng dân, trước đó từng tìm đường vào biên cảnh Đại Tấn, mua vào một lượng lớn lương thảo để giải quyết nguy cấp trước mắt. Tuy nhiên nạn khan hiếm cỏ năm sau có thể giải quyết được hay không thì vẫn chưa rõ. Vậy nên Kinh quốc mới gấp rút muốn mở thị trường, chính là để có thể tích trữ đủ lương thảo. Lần này họ phái người đến đàm phán kết hợp cả mềm lẫn cứng cũng là vì mục đích này. Nếu sang năm vùng đồng cỏ vẫn không thể khôi phục, quân đội Kinh quốc tích lại tích trữ đủ lương thảo, có thể dư lực mà huy binh, gõ mở tuyến phòng thủ biên giới, đến trung thổ tàn sát cướp bóc..."(*)
(*Câu cuối hơi khó hiểu nên editor xin được giải thích một xíu: Tức là việc cỏ của Kinh quốc vẫn chưa được giải quyết, ảnh hưởng đến lương thực của dân chúng, nhưng nếu lương thực dự trữ cho quân đội đủ thì họ vẫn sẽ tiến đánh Đại Tấn để cướp bóc.)
Điều Tư Đồ Thịnh không nói rõ là, những tin tức này đến từ đường dây ngầm mà Liễu Tĩnh Hiên đã che giấu nhiều năm ở Bắc địa, nạn đói lần này ở Bắc địa xuất hiện trước tiên ở vùng thảo nguyên xa biên giới rồi từ từ lan rộng. Cho dù trong nội bộ Kinh quốc hay các bộ lạc nghiêng về phía nam, có lẽ cũng không biết tình hình tai ương cỏ khô ở các bộ lạc phía bắc lại nghiêm trọng như vậy.
Mà phe Thái tử chuyên phụ trách tin tức Bắc địa, vì có mối quan hệ giao hảo với An Cốc mà lơi lỏng cảnh giác, với một chuyện quan trọng như vậy cũng không hỏi han tỉ mỉ, chỉ báo cáo một cách qua loa bằng một câu năm nay Kinh quốc cỏ nước không phong phú, dồn hết tâm tư vào việc nội đấu với Tứ hoàng tử.
Tin tức Tư Đồ Thịnh nắm giữ lại là những gì Liêu Tĩnh Hiên dày công xây dựng mạng lưới nhân mạch nhiều năm ở Bắc địa thu thập được. Cũng chỉ có Liễu Tĩnh Hiên "thông Kinh quốc" này thông qua phân tích các loại tin tức mới có thể nắm bắt một cách chắc chắn như vậy.
Đàm phán nghị hoà là như thế, chỉ có nắm được huyệt đạo của đối phương, biết được nhược điểm của đối phương mới có thể chiếm thế thượng phong.
Tư Đồ Thịnh kiên định nói: "Bệ hạ, chúng ta còn chưa rõ chiêu bài của người Kinh quốc! Làm sao có thể ra giá được? Vậy nên không cần vội vàng, việc hòa đàm này chi bằng cứ thăm dò rõ ràng rồi từ từ thương lượng!"
Tấn Nhân đế từ miệng Tư Đồ Thịnh mới biết, hóa ra tai ương trước kia của Kinh quốc lại nghiêm trọng như vậy, trong lúc nhất thời sắc mặt của ông có chút khó coi.
Ông ngồi ở vị trí cao, tuy rằng có nhiều chuyện bị dối trên gạt dưới, không hoàn toàn hiểu rõ.
Vậy nhưng hiện giờ ngay cả tình hình thực tế của địch quốc như sói hổ, ông cũng là người biết sau cùng, thật sự không thể chấp nhận nổi!
Ông phẫn nộ đến mức đột ngột đập bàn, hung hăng nói: "Vô năng chính là hại nước!"
Một câu này của ông, rõ ràng là đang mắng nhi tử mình.
Ai mà không biết, số lương thảo của An Cốc trước đó chính là do Thái tử nhận vàng của họ vận chuyển?
Với tư cách trữ quân một nước lại kết giao với kẻ địch như sói hổ. Hắn thật sự cho rằng, chỉ bằng giao tình cá nhân của hắn với An Cốc kia, có thể đem lại bình an muôn đời sao?
Tư Đồ Thịnh hướng về phía bệ hạ, cúi đầu một cái thật sâu rồi cất giọng nói: "Bệ hạ, đây là trời đang phù hộ Đại Tấn! Vận nước trăm năm đều nằm ở đây, nếu là bệ hạ, người nhất định phải thuận theo thiên vận, nắm bắt lấy cơ hội ngàn năm khó gặp này..."
Nói đến đây, hắn hơi ngẩng đầu, nhìn về bệ hạ, gằn từng chữ nói: "Bất kể kẻ khơi mào chuyện tranh chấp này có là ai cũng không cần phải quan tâm đến rắp tâm của y. Chỉ có bóp nát cổ họng của mấy tên sói hổ này mới có thể ngăn chặn được lòng tham vô đáy của chúng! Từ xưa đến nay, cương nhu phải cùng dùng mới có thể chấn nhiếp tứ phương! Nhu, chúng ta đã tận tình tận nghĩa rồi. Nhưng cương, phải ra tay đúng lúc mới có thể tránh rơi vào thế bị động!"
Tấn Nhân đế nheo mắt nhìn vị thần tử trẻ tuổi dưới điện.
Không biết vì sao, từ vị thần tử này, ông càng ngày càng cảm nhận được một khí chất tương tự.
Từng cũng có một vị thần tử tuổi còn lớn hơn ông rất nhiều, quỳ ở giữa điện đường này và nói với ông những lời tương tự.
Chỉ là năm đó là cảnh tượng thế nào? Lúc đó ông cũng lòng mang đầy nhuệ khí, chứ không phải một đế vương đắn đo trước sau như này...
Tấn Nhân đế cảm thán, ông vẫn cảm thấy việc này táo bạo và mạo hiểm, nếu lời Tư Đồ Thịnh nói có sai lệch và Kinh quốc thật sự hung hăng khởi chiến thì phải làm sao?
Tư Đồ Thịnh bình tĩnh nói: "Tiếng hô như sóng thần của bách tính ngoài cổng cung chẳng phải là chỗ dựa lớn nhất của bệ hạ sao? Bệ hạ từng cảm thán rằng trong triều không có lương thần đáng tin cậy. Thử hỏi các triều đại, không phải đều là từ trong làn sóng bảo vệ biên cương trào ra vô số lương tướng hiền thần có thể dựa dẫm vào sao! Thời thế tạo anh hùng, nếu bệ hạ cảm thấy thiếu binh ít tướng, sao không tạo ra thanh thế lớn, tuyển ra một lớp lương tướng đáng dùng? Người vạn lần không thể để thất phu thiên hạ nguội lòng, cảm thấy một thân dũng cảm mà cô đơn, không có cơ hội để báo quốc!"
Tấn Nhân đế vẫn im lặng.
Vị thần tử trẻ tuổi này tâm tư trầm ổn, tầm nhìn xa rộng, thật sự là một hiền tài hiếm có của quốc gia.
Ông làm hoàng đế đã nhiều năm, tất nhiên là ông hiểu rõ đạo làm vua là biết giả ngu đúng lúc, cũng phải biết khéo dùng nhân tài.
Đáng tiếc là lúc còn trẻ ông không ngộ ra được điểm này, trong việc của Dương gia, ông không thể "giả ngu" để ổn định lòng mình, để rồi tự tay bẻ gãy đôi cánh của chính mình rồi ngã một cú thật lớn.
Nếu hôm nay ông thật sự lấy Lý gia ra để khai đao, làm nguội lòng phụ tử Lý gia thì có khác gì với việc diệt môn Dương gia khi trước.
Tư Đồ Thịnh nói muốn dò xét chiêu bài của Kinh quốc, rốt cuộc có đáng để mạo hiểm thử một phen không?
Hôm đó quân thần hai người đàm đạo rất lâu, trong phòng ngay cả một người hầu cận cũng không có.
Nhưng Thái tử hẳn là rất muốn biết quân thần bọn họ đã bàn luận những gì.
Khi Tư Đồ Thịnh đi ra ngoài, Thái tử vẫn còn chưa đi mà đang đợi ở ngoài cổng cung.
Vừa thấy Tư Đồ Thịnh đi ra, hắn liền bước qua, hỏi một câu quái khí: "Sao, ngươi ở lại là để cầu tình cho Lý Thành Nghĩa à? Kỳ thực ngươi không cần cầu tình, ta cũng sẽ thi ân cho hắn, nhưng phụ hoàng rốt cuộc đã nói gì với ngươi?"
Tư Đồ Thịnh này giao du không nhiều, Lý Thành Nghĩa kia có thể tính là một mối giao hữu của hắn. Vào thời điểm then chốt như lúc này, nếu Tư Đồ Thịnh nảy sinh ra tranh cãi với phụ hoàng, chỉ sợ cũng sẽ bị phụ hoàng hắn quở trách.
Tư Đồ Thịnh nghe câu hỏi của Thái tử rồi chỉ cung kính đáp lễ: "Bệ hạ không muốn thần tiết lộ, nếu điện hạ thật sự muốn biết, ngài có thể đi hỏi bệ hạ."
Sắc mặt Thái tử trở nên rất khó coi, từ trên xuống dưới cả triều đình, người dám đối xử với một vị trữ quân như hắn như vậy cũng chỉ có tên cứng đầu Tư Đồ Thịnh này mà thôi.
Nơi đây không người, hắn cũng không ngại mà nói thẳng với tên tiểu tử này.
Nghĩ vậy, hắn tiến lên một bước rồi hung hăng trừng Tư Đồ Thịnh, lạnh lùng hỏi: "Tư Đồ đại nhân có biết, dưới phụ hoàng chính là trữ quân. Ngươi bất kính như vậy đối với cô, chẳng lẽ không biết cân nhắc cho tương lai của mình hay sao?"
Phụ hoàng tuy thân thể vẫn tính là cường tráng nhưng dù sao thì tuổi cũng đã cao.
Lúc trước Tĩnh phi nương nương sủng ái, ở trong cung một tay che trời. Mấy hoàng tử tuổi nhỏ may mắn sống sót, nếu không phải mẫu phi có xuất thân ti tiện thì bản thân cũng là kiểu bất tài.
Trong các hoàng tử trưởng thành hiện giờ còn lại ở Kinh thành cũng chỉ còn lại tên Lục đệ gan nhát như gà con, hoàn toàn không có sự nâng đỡ của gia tộc mẫu phi.
Vậy nên Thái tử giờ có thể nói là yên tâm kê cao gối mà ngủ, không còn đối thủ nào cho vị trí trữ quân nữa.
Nghe Thái tử đe dọa một cách lộ liễu như vậy, Tư Đồ Thịnh lại vờ như không nghe hiểu, chỉ hơi ngẩng cặp mắt tuấn tú rồi đáp lại một cách nhẹ nhàng: "Vì sao phải cân nhắc? Võ đế tiền triều liên tiếp phế hai Thái tử, cuối cùng lập ấu tử trong tã lót của ái phi làm quốc trữ, ông sống trường thọ trị quốc, mãi cho đến khi Thái tử trưởng thành mới nhường ngôi... Thần thấy bệ hạ nhất định có thể vượt qua vị Võ đế kia, trường thọ lâu dài..."
Lời ám chỉ này như những cú gõ thình thình đập l*n đ*nh đầu của Thái tử, làm hắn tức đến mức thái dương nổi gân xanh, thấp giọng gầm lên: "Tư Đồ Thịnh, ngươi dám nguyền rủa cô!"
Tư Đồ Thịnh mặt đã không còn chút ý cười, hắn chỉ nâng cao âm lượng mình lên một chút rồi hỏi lại: "Điện hạ tha tội, chẳng lẽ... Người cảm thấy thần nói sai, hoàng thượng không phải là tướng trường thọ?"
Thái tử thấy tên thị vệ bên cạnh đột nhiên thay đổi ánh mắt, lập tức sợ đến mức toát mồ hôi lạnh đầy đầu, gắng gượng nuốt xuống cơn tức giận này rồi cố ép ra một nụ cười: "Tốt, Tư Đồ đại nhân nói hay lắm! Thần tử thấu hiểu ý phụ hoàng như ngươi quả thực thật hiếm trên đời. Nếu đã không có việc gì trọng yếu, đại nhân xin cứ đi trước!"
Tư Đồ Thịnh mỉm cười, sau đó hành lễ rồi xoay người bước đi.
Thái tử giờ rất ít khi bị người ta làm nghẹn họng đến mức không thở nổi như vậy.
Giờ hắn đã hơn bốn mươi tuổi, nhìn khắp các triều đại, hắn cũng tính là một Thái tử "trường thọ". Nhưng phụ hoàng tuy tuổi đã cao lại không có chút ý muốn nhường ngôi dưỡng lão, càng không có ý cấp quyền lực cho quốc trữ rèn luyện.
Chẳng lẽ... thật sự như Tư Đồ Thịnh nói, phụ hoàng nếu không hài lòng với hắn, sau này còn có thể lập một ấu tử thay thế hắn?
Nghĩ đến đây, vị Thái tử ngồi trên vị trí quốc trữ vẫn luôn sống như chim sợ cành cong liền lập tức cảm thấy có chút bất an.
Hắn đột nhiên nghĩ đến, phụ hoàng mấy năm gần đây vẫn luôn không có thêm hài tử mới, rốt cuộc là phụ hoàng không được nữa, hay là do trước kia có Tĩnh phi quấy phá?
Nếu là trường hợp sau, phụ hoàng giờ đang sủng ái ai trong cung? Mấy vị mẫu phi của mấy ấu đệ kia có người nào có thể gây ra sóng gió không?
Vốn đang kê cao gối ngủ ngon mà vì những lời có ý tứ ám chỉ của Tư Đồ Thịnh liền lập tức biến thành nguy cơ đến từ tứ phía.
Thái tử quyết định để tai mắt trong cung chăm chỉ xem xét khởi cư chú (*) của đế vương, ngoài ra mấy tên tiểu tử trong cung kia cũng phải xem xét tình trạng thế nào, chuyện công khóa ra sao cũng phải thường xuyên kiểm tra...
(*Khởi cư chú: Sổ ghi chép sinh hoạt của đế vương)
Trong lúc nhất thời, chuyện Tư Đồ Thịnh vừa rồi đã nói chuyện gì với phụ hoàng liền trở nên không mấy quan trọng nữa.
Hơn nữa cũng rất nhanh thôi, Thái tử không cần hỏi cũng có thể đoán ra nội dung của cuộc đàm thoại giữa quân thần.
Từ hôm đó trở đi, mấy sứ thần còn đang uống rượu ở dịch quán bị binh lính Đại Tấn ùa vào dịch quán bao vây rồi lần lượt bị ấn xuống, trói lại rồi đưa vào nha môn địa phương, tống giam vào ngục.
Bởi vì bọn chúng đồng lõa với tên Hà Sát đã chết trêu ghẹo và đả thương nữ tử lương gia, hơn nữa còn hành hung, tấn công quan sai đang đi tuần tra ngoài phố, theo luật pháp thì phải bị phạt trượng hai mươi cái rồi trục xuất ra khỏi cương giới Đại Tấn ngay ngày hôm đó.
Hai mươi gậy kia cũng không phải là người thường ra tay, nghe nói là một tay lành nghề được điều từ Đại Lý Tự đến thi hành.
Mỗi trượng rơi xuống đều thấy máu, còn chưa đến mười trượng, mấy tên tráng hán Kinh quốc đã kêu đến lạc giọng, đợi đánh xong hai mươi trượng, người đã đau đến ngất đi.
Nghe nói người hạ trượng đánh người còn có một tên là tùy tùng của vị ác quan Tư Đồ Thịnh.
Nghe nói hắn muốn học nghề đánh trượng nên cũng cùng theo hành hình, suýt nữa đã đánh gãy cả gậy, dùng hết sức chín châu hai hổ mà hạ trượng.
Mấy sứ thần bị đánh đến mức da tróc thịt bong cùng thi thể Hà Sát trở về Kinh quốc, tất cả đều phải dùng cáng khiêng về.
Trong thư Tấn Nhân đế viết cho Khả Hãn Kinh quốc đã chỉ thẳng: Đã là hòa đàm, vì sao lại cố tình phái mấy tên thô lỗ còn không bằng thổ phỉ như vậy?
Có phải là đang cố ý sỉ nhục Đại Tấn, cố ý khơi mào chiến tranh hay chăng?
Tuy nhiên không phải là tất cả các sứ thần Kinh quốc đều bị phạt, nghe nói ngay hôm Hà Sát gây chuyện đã có mấy người bí mật trở về phương Bắc trước, cũng tính là đã thoát nạn trong gang tấc.
Sau đó, bệ hạ tách riêng việc trinh sát tình báo Bắc địa ra khỏi binh ti, không còn để Thái tử quản lý mà là do bệ hạ tự quản.
Việc điều phái lại nhiều nhân thủ tình báo, rõ ràng thường là tình trạng chuẩn bị binh lực trước khi khai chiến.
Mà Tư Đồ Thịnh có chủ trương cứng rắn với Kinh quốc lại càng được bệ hạ trọng dụng, từ Hộ bộ thăng thẳng lên Xu Mật Viện (*), vinh thăng làm Xu Mật Sử(**), phụ tá chính vụ Thừa tướng, từ một quan viên tứ phẩm vinh thăng thành tòng nhất phẩm (***), thay thế Thái tử trở thành đại thần chủ quản việc hòa đàm sau này.
(*Xu Mật Viện: Cơ quan quân sự tối cao.
**Xu Mật Sử: chức vụ cao nhất của Xu Mật Viện, tương đương với chức Thừa tướng về quân sự.
***Tòng nhất phẩm: Kém hơn nhất phẩm 1 bậc. Không phải nhị phẩm nha, đại khái nó như kiểu A- nhưng không phải là B ấy.)
Ngoài ra, tướng quân Lý Thành Nghĩa giao chiến với Kinh quốc không những không bị phạt, ngược lại còn được bệ hạ tự mình khen thưởng, ban tước hiệu "Trung Dũng" tướng quân.
Lý lão tướng quân cũng nhận được chiếu chỉ của hoàng đế, thống lĩnh trọng binh, điều động quân đội, bố phòng hướng về phía Bắc.
Từ hôm nay trở đi, tất cả các thành trì biên tuyến đều cấm đi lại ban đêm, đối với các khách thương buôn muối đi Bắc địa càng phải nghiêm khắc hơn.
Nếu có kẻ buôn lậu lương thảo, theo quân pháp phải chém ngay lập tức!
Nhất thời văn võ cả triều đều sửng sốt, cảm thấy bệ hạ hẳn là đã hoa mắt ù tai, mê muội đầu óc mất rồi, đánh cược trăm năm thanh bình của Đại Tấn để khiêu khích, khai chiến với một cường địch!
Phụ tử Lý gia nhận chiếu chỉ uỷ thác hoàng đế, ngay ngày hôm đó đã xuất phát đến tiền tuyến để trấn thủ Bắc địa.
Một ngày trước khi lên đường, Lý Thành Nghĩa mời Tư Đồ Thịnh đi uống rượu, hắn chắp tay với Tư Đồ Thịnh: "Trước kia quân đã giúp ta tránh mũi tên sát mệnh, lại bảo vệ ta trước mặt bệ hạ, quân chính là người có ơn cứu mạng với ta, đại ân không lời nào có thể cảm tạ hết, xin đợi ngày sau báo đáp!"
Tư Đồ Thịnh cũng chắp tay hướng về phía hắn: "Nói nặng lời rồi, ngươi đi Bắc địa, có thể chống đỡ được những đợt đột kích báo thù sau này của Kinh quốc thì ngươi chính là ân nhân cứu mạng của ta!"
Phản ứng lần này của Đại Tấn là cái tát bỏng rát đánh vào mặt Kinh quốc, Kinh quốc nhất định sẽ nhảy dựng lên muốn báo thù.
Đây cũng là quyết định hắn đưa ra sau mấy lần gặp mặt với bệ hạ, Lý lão tướng quân và sau khi diễn tập bố phòng trên sa trường.
Kinh quốc bây giờ lương thảo không đủ lại không có cách nào để mua lương thảo nên sẽ không đột kích đường dài.
Vậy nên có thể chống đỡ được mấy đợt đầu hay không chính là nước đi then chốt trong ván cờ giữa hai nước.
Hai con mãnh thú đều có chút hụt hơi, xem ai là người kiên trì đến cuối cùng. Nếu phụ tử Lý gia không thể chống đỡ được đợt mãnh công đầu tiên này ở biên tuyến, vị thần tử Tư Đồ Thịnh một lòng muốn vật lộn tay đôi với Kinh quốc này sẽ là người đầu tiên bị đẩy ra để "hiến tế".
Vậy nên lời Tư Đồ Thịnh nói không phải là lời khoa trương. Lý Thành Nghĩa lại chắp tay về phía Tư Đồ Thịnh, biểu thị rằng mình tuyệt đối sẽ không phụ sự ủy thác của quân!
Chỉ là việc bệ hạ đưa ra phản ứng cứng rắn như lần này, thật sự vượt ngoài dự đoán của các đại thần.
Mỗi ngày lâm triều đều như bước vào linh đường vậy, hết đại thần này đến đại thần khác thay phiên khóc lóc, khẩn thiết xin bệ hạ suy nghĩ thật kỹ, chớ bị yêu ngôn của gian thần mê hoặc, lấy vận nước ra đánh cược.
Tuy làn sóng phản đối dâng trào trên triều đình nhưng tiếng hoan hô trong dân gian lại vô cùng mạnh mẽ.
Ngày hôm đó sứ thần Kinh quốc bị lôi ra khỏi trạm dịch rồi ăn gậy ở đầu phố là chuyện náo nhiệt nhất Đại Tấn.
Người vây xem nào là ba lớp trong rồi lại đến ba lớp ngoài, ngay cả trên mấy cái cây lớn xung quanh cũng treo đầy người, tất cả người vây xem đều liên tục nói tiếng hoan hô, vô cùng thống khoái, hả giận.
Mà việc chiêu binh tiến hành sau đó cũng thuận lợi hơn nhiều so với mọi năm.
Nhiều thanh niên nhiệt huyết nghe nói gần đây biên quan bị đạo tặc Kinh quốc tàn sát cướp bóc đều trào dâng nỗi niềm phẫn nộ, mà tin tức sứ giả Kinh quốc chết bất đắc kỳ tử ngoài phố, sau đó bị đuổi ra khỏi cương giới lại càng cổ vũ lòng người, hiện giờ biên quan dùng binh, quân lương cũng được cấp đủ, hiển nhiên là có rất nhiều người hăng hái đến báo danh tòng quân.
Tiệm của Sở Lâm Lang rất gần với doanh trại báo danh tòng quân, gần đây cũng là lúc tiết trời phơi thóc, buổi trưa trời nắng hầm hập, nên các chủ tiệm xung quanh đều sẽ mang nước đến giải khát cho mấy binh sĩ kia.
Lâm Lang cũng nấu hai thùng chè đậu xanh lớn. Dù sao hôm đó bọn họ có thể thoát thân khỏi cửa tiệm cũng nhờ nhiều người láng giềng không biết tên biết tuổi này dám làm việc nghĩa.
Ngoài việc phát cho các cửa tiệm láng giềng xung quanh, Lâm Lang còn dẫn theo Hạ Hà và Đông Tuyết vừa mới lành vết thương đến phát chè ngọt cho mấy nghĩa sĩ đang xếp hàng chờ nhập ngũ.
Đang lúc bọn họ phát bát không nghỉ tay thì có một chiếc xe ngựa đi qua.
Người trong xe ngựa vén rèm xe lên, vừa khéo nhìn thấy cảnh Sở Lâm Lang nở một nụ cười đẹp như hoa, đang phát chén chè ngọt, sắc mặt liền không nhịn được mà âm trầm đi mấy phần.
Người trong xe chính là Đào Tuệ Như.
Bà ta vốn tưởng Dương Nghị sẽ nghe theo mưu kế của mình, cho dù không g**t ch*t Sở Lâm Lang này cũng phải khiến Sở thị chịu nhục trong tay người Kinh quốc, thanh danh bị huỷ hoại, không chỗ đứng ở Kinh thành.
Biết đâu, nàng ta chỉ còn nước tự vẫn để kết thúc mọi chuyện.
Tư Đồ Thịnh mất đi phụ nhân mình thương yêu, nhất định sẽ oán giận sứ thần Kinh quốc, đến lúc đó, hắn ta quấy rối chuyện hòa đàm giữa hai nước rồi nhận lại kết cục cũng chẳng tốt đẹp gì.
Đào Tuệ Như không biết Dương Nghị có nghe lời bà ta hay không, nhất thời cũng có chút thấp thỏm trong lòng.
Mấy hôm đó tuy bà ta ở nhà nhưng cũng sai người đi loanh quanh gần con phố đó dò xét tình hình.
Không ngờ rằng nữ tử này không phải người có vận may tầm thường, vậy mà nàng ta có thể không chút tổn hao gì khi người Kinh quốc đến đại náo cửa tiệm của nàng, còn tên võ phu Kinh quốc Hà Sát ngông cuồng kia lại mất mạng trong cuộc xung đột.
Đào Tuệ Như nghe xong còn tưởng là kẻ hạ nhân dò la không đắc lực mà nghe nhầm mất rồi.
Nhưng sau đó bà ta hỏi lại huynh trưởng, huynh trưởng bà ta cũng nói như vậy.
Vậy là Đào Tuệ Như lại nghĩ, sứ thần Kinh quốc bỏ mạng ngoài ý muốn, gây ra hậu quả nghiêm trọng, cửa tiệm của Sở nương tử kia chính là trung tâm phát sinh ra mọi sự, nàng ta làm chủ tiệm sao có thể thoát khỏi liên can được?
Bà thậm chí còn nghĩ, bà có nên góp vài lời trước mặt điệt tử Thái tử của mình, ám chỉ rằng phụ nhân kia vốn quen thói dùng nhan sắc dụ hoặc nam tử, nàng ta mới là thủ phạm gây ra vụ việc ngoài ý muốn này.
Kết quả là bà ta còn chưa kịp rèm pha lời thị phi trước mặt điệt tử Thái tử, Thái tử đã bực bội vẫy tay, biểu thị rằng loại phụ nhân chỉ biết chuyện trong nội trạch như bà đừng đến phiền nhiễu hắn.
Cũng không nhìn xem hắn giờ đang ngập đầu mấy chuyện phiền não, đâu có hơi rảnh mà nghe mấy chuyện thị phi tình tình ái ái kia của bà ta!
Sau đó Đào Tuệ Như mới biết, bệ hạ căn bản không có ý trừng phạt kẻ đã giết Hà Sát.
Không những không truy cứu, ngược lại ngài còn bày ra thái độ cứng rắn chưa từng có.
Trong lúc nhất thời, ngay cả chuyện Sở Lâm Lang ném bột vôi vào mặt sứ thần Kinh quốc cũng được người đời truyền thành nữ tử dũng cảm chống lại ác bá Kinh quốc, cứu tỳ nữ bị trêu ghẹo, được người người liên tục tán thưởng.
Bệ hạ cũng ban thưởng cho nàng ta, nói nàng ta tính tình thẳng thắn, là bản sắc của nữ nhi Đại Tấn, không phụ phong hiệu "Tân Mai an nhân"...
Chưa hết, Tư Đồ Thịnh vốn luôn bị đám cận thần đắc lực chèn ép, lại nhân cơ hội này nói hùa được tâm tư của bệ hạ, không biết đã dùng nói lời nịnh hót gì mà lại xúi giục được bệ hạ xuất binh, tranh thủ dịp này để leo lên cao hơn.
Khi lệnh thăng chức của Tư Đồ Thịnh được ban xuống, cả triều đều chấn động.
Bởi vì vị trẻ tuổi không có bối cảnh, chỗ dựa này thăng tiến thật sự quá nhanh! Hắn từ Hộ bộ Thị lang tứ phẩm, thăng thẳng lên vị trí chủ quản chính vụ Xu Mật Viện và một phần quân quyền, làm Xu Mật Sử tòng nhất phẩm.
Từ đây hắn có thể ra vào thư phòng bệ hạ, có thể thường xuyên thương nghị quốc sự với bệ hạ.
Mấy thần tử trong Xu Mật Viện kia, người nào không phải là lão thần từng trải, xương thịt đã mài nát, dầu mỡ cũng đã luyện ra mới có thể vào được đây?
Một tên thần tử trẻ tuổi, đi theo con đường cô độc, rốt cuộc đã dùng cách gì để có thẻ được bệ hạ coi trọng và tín nhiệm như vậy, thật sự là tà môn vô cùng!
Ngay cả phụ thân bà là Quốc công gia cũng ưu tư trăm mối, nói thằng rằng một tên tiểu tử chỉ biết dùng miệng lưỡi lại có thể thăng tiến vùn vụt như vậy, đây không phải là chuyện vui của Đại Tấn.
Hiện giờ từ trên đến dưới Đại Tấn đều như bị tiêm máu gà. Ngay cả nhi tử bà, Đào Tán, ngày hôm qua trở về nhà cũng rất hưng phấn, thậm chí còn la hét nói rằng chùa chiền vô vị, hắn muốn bỏ bút theo việc quân, lập công dựng nghiệp.
Đào Tán tuy từ nhỏ đã được đổi sang họ Đào nhưng hắn cũng biết mình là hậu duệ của võ tướng. Câu chuyện tổ phụ Dương Tuần của hắn, ngay cả khi ngồi trong trà lâu cũng thường xuyên được nghe thấy.
Vậy nên hắn tự cảm thấy mình có huyết mạch võ tướng, sao có thể cam tâm để mẫu thân nuôi hắn trong chùa chiền, trở thành một con mèo ngay cả chuột cũng không biết bắt được?
Đào Tuệ Như nghe nhi tử mình nói ra mấy lời đại nghịch bất đạo muốn noi gương tổ phụ liền tức giận đến run cả người.
Bà gào thét ngăn nhi tử mình lại sau đó nói cho hắn biết, hắn họ Đào! Chỉ có ngoại công, không có tổ phụ!
Sau đó bà lại giáo huấn nhi tử nửa ngày trời mới dừng được ý nghĩ tuổi trẻ cuồng vọng của hắn!
Đào Tuệ Như từ khi biết thân phận thật sự của Tư Đồ Thịnh, ngày đêm đều trằn trọc khó ngủ, vậy nên khi nghe nhi tử mình nói lời "nhận tổ quy tông" kia, trong lòng cũng bùng nổ!
Bà không biết Tư Đồ Thịnh ẩn náu bên cạnh bệ hạ là có ý đồ gì, càng không biết trong cái chết của Hà Sát, Dương Nghị đóng vai trò gì.
Đôi phụ tử này đều không phải là đèn cạn dầu. Đào Tuệ Như vốn muốn gây nội chiến giữa phụ tử, không ngờ rằng mình lại trở thành kẻ lo lắng bồn chồn như bị kẹp trên chảo dầu.
Đào Tuệ Như nhất thời cảm thấy có chút rối loạn, bà nghi ngờ mưu kế của mình ngược lại lại cho phụ tử họ linh cảm, khiến họ liên thủ, diễn một vở kịch trước mặt bệ hạ.
Chính mưu kế của bà đã khiến Tư Đồ Thịnh thừa cơ hội này mà thăng tiến như diều gặp gió...
Sao điều này không khiến Đào Tuệ Như âm thầm nghiến răng nghiến lợi được, sau lưng, bà ta lại âm thầm gõ mõ, nguyền rủa Dương Nghị chết không được yên lành!
Hơn nữa... nghĩ đến Tư Đồ Thịnh là nhi tử của bà điên Ôn thị, Đào Tuệ Như vốn luôn có lỗi với Ôn thị liền cảm thấy như bị trăm móng tay cào tim, hận không thể không lập tức trừ khử cho xong.
Chỉ là đúng là bí mật này phải thối rữa trong bụng bà ta, không thể nói cho ai biết.
Bởi vì đầu kia của con châu chấu Tư Đồ Thịnh này còn kéo theo nhi tử bà ta, Đào Tán!
Cho dù có là phụ thân và huynh trưởng, bà ta cũng không thể tin tưởng.
Nếu chuyện của Tư Đồ Thịnh bị lộ ra, dựa theo tính cách của phụ thân bà, ngay cả nữ nhi như bà ta, ông cũng có thể dứt tình đoạn nghĩa, phủi sạch can hệ.
Cái gọi là cha anh, căn bản cũng sẽ không đoái hoài đến cô nhi quả phụ như bà đâu!
Đào Tuệ Như nắm giữ một bí mật có thể khiến Tư Đồ Thịnh ngã xuống không vực lại được, nhưng nhất thời bà ta không tìm được chỗ nào để hạ đao.
Đang lúc cô lạnh lùng đánh giá Sở Lâm Lang thì Sở Lâm Lang cũng ngẩng đầu lên, vừa đúng lúc nhìn thấy Đào Tuệ Như ngồi trên xe ngựa với vẻ mặt âm tình bất định.
Chỉ là ánh mắt của vị cư sĩ này nhìn người không mang nét thiện chí cho lắm, Sở Lâm Lang dứt khoát bước qua, hào phóng nói lời chào hỏi với bà ta.